85 research outputs found

    Credit Scoring for Vietnam’s Retail Banking Market: Implementation and Implications for Transactional versus Relationship Lending

    Get PDF
    As banking markets in developing countries are maturing, banks face competition not only from other domestic banks but also from sophisticated foreign banks. Combined with a dramatic growth of consumer credit and increased regulatory attention to risk management, the development of a well-functioning credit assessment framework is essential. As part of such a framework, we propose a credit scoring model for Vietnamese retail loans. First, we show how to identify those borrower characteristics that should be part of a credit scoring model. Second, we illustrate how such a model can be calibrated to achieve the strategic objectives of the bank. Finally, we assess the use of credit scoring models in the context of transactional versus relationship lending.financial economics and financial management ;

    Two decades of studies on learning management system in higher education: A bibliometric analysis with Scopus database 2000-2020

    Get PDF
    Over the past twenty years, using learning management systems in higher education has attracted increasing interest from researchers around the globe. In this context, the current study aimed to explore the volume, growth trajectory, and geographic distribution of learning management systems in higher education literature, along with identifying impactful authors, sources, and publications, and highlight emerging research issues. The authors conducted bibliometric analysis on 1334 documents, related to the use of learning management systems in the context of higher education, extracted from Scopus database. The findings show a rapidly growing knowledge base on learning management systems in higher education, especially intensely in the years 2015-2020 and primarily from research in developed societies. This flourishing is consistent with the development trend of international education and the strong development of technology. In addition, the core literature was identified based on the volume of publications and citations. The results also reveal the emerging intellectual structure of the field and provide points of reference for scholars studying the discipline. This paper offers a knowledge map for future research assessments of learning management systems in higher education

    ĐẶC ĐIỂM TƯỚNG ĐÁ - CỔ ĐỊA LÝ PLEISTOCEN MUỘN-HOLOCEN KHU VỰC CỬA SÔNG BA LẠT

    Get PDF
    Lithofacies and paleogeographical characteristics of late Pleistocene-Holocene deposits are related to three sedimentary system tracts: Lowstand systems tract (LST) corresponds to the low regressive phase from 50 ka BP to 18 ka BP. The sedimentary accumulative space is situated from the boundary of weathering crust to the 100 m water depth. In Ba Lat rivermouth area, the lowstand systems tract is dominated by the alluvial silty sand facies group (arLST); Transgressive systems tract (TST) in Ba Lat rivermouth area constitutes a lithofacies section including three facies in upward direction as follows: (1) Transgressive alluvial silty - sand facies (atTST). (2) Transgressive estuary sandy - mud facies (amtTST). (3) Lagoonal maximum transgressive greenish clay facies (mtTST); Highstand systems tract (HST) in the downstream Red river delta area constitutes a deltaic plain structure consisting of three parts: High subaerial delta, low subaerial delta and subaqueous delta, which had been formed from 5 ka BP.Đặc điểm tuớng đá - cổ địa lý trầm tích Pleistocen muộn-Holocen khu vực cửa sông Ba Lạt gắn liền với ba miền hệ thống trầm tích: Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) tương ứng với pha biển thoái thấp từ 50.000 năm BP đến 18.000 năm cách ngày nay. Không gian tích tụ của miền hệ thống này được giới hạn từ ranh giới miền xâm thực (vỏ phong hóa) đến độ sâu 100 m nước. Trong khu vực cửa Ba Lạt nhóm tướng aluvi biển thoái thống trị (arLST); Miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST) trong khu vực cửa sông Ba Lạt cấu thành một mặt cắt gồm ba tướng từ dưới lên: (1) tướng cát bột aluvi biển tiến (atTST), (2) tướng bùn cát cửa sông biển tiến (amtTST) và (3) tướng sét xám xanh vũng vịnh biển tiến cực đại (mtTST); Miền hệ thống trầm tích biển cao (HST) trong khu vực hạ lưu châu thổ sông Hồng tạo nên một cấu trúc đồng bằng châu thổ bao gồm: Đồng bằng châu thổ cao, Đồng bằng châu thổ thấp và châu thổ ngập nước có tuổi từ 5.000 năm BP

    TỔNG HỢP VẬT LIỆU Ni/UiO-66 THEO PHƯƠNG PHÁP TRỰC TIẾP VÀ GIÁN TIẾP

    Get PDF
    An archetypal metal-organic framework, UiO-6,6, synthesized with the solvo-thermal method, has a large specific surface area of 1071 m2·g–1. This material was modified with NiCl2 in the direct (Nix(tt)/UiO-66) and indirect (Nix(gt)/UiO-66) methods. The two modified materials were characterized by using powder X-ray diffraction, scanning electron microscopy, and infrared spectroscopy. Their crystalline and chemical structure is not much different. However, the thermal and porous properties differ from each other.UiO-66 là họ vật liệu khung hữu cơ kim loại tổng hợp bằng phương pháp nhiệt dung môi có diện tích bề mặt riêng lớn (1071 m2·g–1). Vật liệu UiO-66 này được biến tính bằng NiCl2 theo phương pháp trực tiếp (Nix(tt)/UiO-66) và gián tiếp (Niy(gt)/UiO-66). Kết quả đặc trưng hai vật liệu biến tính này bằng nhiễu xạ tia X, hiển vi điện tử quét và phổ hồng ngoại khác nhau không đáng kể. Tuy nhiên, phân tích nhiệt trọng lượng và đẳng nhiệt hấp phụ – khử hấp phụ N2 cho thấy có sự khác nhau giữa các phương pháp tổng hợp

    Differentiation Effect of Two Alkaloid Fractions from Vietnamese Lycopodiaceae on Mouse Neural Stem Cells

    Get PDF
    Various Lycopodium alkaloids have been studied for their various biological activities including anti-inflammatory, antioxidant, immunomodulatory, and neuroprotective activities. Moreover, these alkaloid compounds have high potential in the treatment of neuron degenerative disease. This study has been carried out to test the effect of Huperzia serrata (Thunb.) Trevis, and Lycopodium clavatum L alkaloid fractions on the mouse neural stem cells (NSCs). Firstly, the alkaloid fractions were used to verify its toxicity on NSCs. The multiple concentrations of alkaloid fractions from H. serrata (0.044; 0.088; 0.175; 0.35; 0.7; 1.4 mg/ml) and L. clavatum (0.031; 0.063; 0.125; 0.25; 0.50; 1.0; 2.0 mg/ml) have been used for the treatment of NSCs at period of 48h incubation. Results of the study suggested that the IC50 value of H. serrata and L. clavatum was 0.56 mg/ml and 0.50 mg/ml, respectively. Then, the NSCs were differentiated in the presence of 5 and 10 µg/ml of alkaloid fraction from H. serrata; 0.625 and 1.25 µg/ml of alkaloid fraction from L. clavatum for 6 days. Here, we observed the primary NSCs treated with alkaloid fraction extract from H. serrata showed the increased gene expression level of early neuron TUBB3 and neuron-specific cytoskeleton MAP2. On the other hand, the L. clavatum alkaloid fraction increased the expression of neural stem cell marker genes (Nestin and PAX6) and decreased neuron marker genes. In conclusion, these results established that alkaloid fraction from H. serrata promoted differentiation of the mouse NSCs to neuron cells, and L. clavatum extract had a capacity for stemness maintenance

    TÀI NGUYÊN VỊ THẾ ĐẢO CỒN CỎ

    Get PDF
    Being a basaltic volcano, Con Co island is an isometric hill 2.3 km2 wide and 63 m high, located far 24 km from the mainland, and guards the entrance to the Gulf of Tonkin. It is isolated, but unique in location, and relatively closed to mainland. Despite its small size, the characteristics of morphology and spatial structures, geological composition, area, height, ecological landscape, dynamics and stability of the island... create great values of geo-natural position resources and favorable environment for island residents. Regarding geo - economic position resources, the island is a district under the Quang Tri province, a priority location for development of the country’s marine and island economy, and the economic centre at the entrance of the Gulf of Tonkin. This is also a convenient site for the development of marine economic sectors such as fishery, natural conservation, services - tourism and some others. In terms of geo-political position resources, the island has tremendous advantages for the sovereignty, sovereign rights and national interests at sea. As an outpost at the highly sensitive geo-political area, the Con Co island has the great value of defense, as a solid military base in the entrance of the Gulf of Tonkin and the most important link in the line of defense from coastal islands in the North Centre. It possesses many valuable cultural heritages, especially the heroic relics during the war against the US.Đảo Cồn Cỏ nguồn gốc núi lửa bazan, dạng đồi đẳng thước rộng 2,3 km2, cao 63 m, nằm cách xa bờ 24 km. Đảo có vị trí lẻ loi ở cửa vịnh Bắc Bộ và khá gần bờ Việt Nam. Mặc dù diện tích đảo nhỏ, nhưng các đặc điểm về hình thể và cấu trúc không gian, cấu tạo địa chất; diện tích, độ cao và cảnh quan sinh thái; động lực và tính ổn định... đã tạo ra giá trị lớn cho đảo về tài nguyên địa - tự nhiên và môi trường sinh cư thuận lợi cho các loài sinh vật và con người. Về giá trị vị thế địa - kinh tế, Cồn Cỏ thuộc đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Trị, là vị trí ưu tiên đối với phát triển kinh tế biển - đảo của đất nước; là vị trí trung tâm của không gian kinh tế khu cửa vịnh Bắc Bộ. Đây là một địa bàn thuận lợi cho phát triển các lĩnh vực kinh tế biển như thủy sản, bảo tồn biển, dịch vụ - du lịch cùng với các loại hình dịch vụ khác. Về giá trị vị thế địa - chính trị, đảo Cồn Cỏ có giá trị to lớn đối với việc bảo vệ các quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển. Là đảo tiền tiêu nằm trong vùng địa - chính trị nhạy cảm cao, đảo có giá trị lớn về phòng thủ, là một cứ điểm quân sự vững chắc ở vùng cửa vịnh Bắc Bộ và mắt xích quan trọng nhất trong phòng tuyến các đảo ven bờ Bắc Trung Bộ. Cồn Cỏ có các giá trị di sản văn hoá biển đảo, đặc biệt là những chiến tích anh hùng trong thời chiến tranh chống Mỹ

    The responsibility of C-terminal domain in the thermolabile haemolysin activity of Vibrio parahaemolyticus and inhibition treatments by Phellinus sp. extracts

    Get PDF
    The thermolabile haemolysin (tlh) of Vibrio parahaemolyticus (Vptlh) from V. parahaemolyticus is a multiple-function enzyme, initially describes as a haemolytic factor activated by lecithin and phospholipase A2 enzymatic activity (Shinoda, 1991; Vazquez-Morado, 2021; Yanagase et al., 1970). Until now, the tlh structure has hypothesized including N-terminal and C-terminal domain, but what domain of the Vptlh structure does the haemolytic activity has not been refined yet. In this study, a 450-bp VpTLH nucleotide sequence of the entire Vptlh gene encoded the C-terminal domain cloned firstly to examine its responsibility in the activity of the Vptlh. The C-terminal domain fused with a 6-His-tag named the His-tag-VpC-terminal domain was expressed successfully in soluble form in the BL21 (DE3) PlysS cell. Remarkably, both expression and purification results confirmed a high agreement in the molecular weight of the His-tag-VpC-terminal domain was 47 kDa. This work showed the His-tag-VpC-terminal domain lysed the erythrocyte membranes in the blood agar and the phosphate buffered saline (0.9%) media without adding the lecithin substrate of the phospholipase enzyme. Haemolysis occurred at all tested diluted concentrations of His-tag-VpC-terminal domain (p < 0.05), providing evidence for the independent haemolytic activity of the His-tag-VpC-terminal domain. The content of 100 μg of the His-tag-VpC-terminal domain brought the highest haemolytic activity of 80% compared to that in the three remaining contents. Significantly, the His-tag-VpC-terminal domain demonstrated not to involve the phospholipase activity in Luria-Bertani agar supplemented with 1% (vol/vol) egg yolk emulsion. All results proved the vital responsibility of the His-tag-VpC-terminal domain in causing the haemolytic activity without the required activation by the phospholipase enzyme. Raw extracts of Phellinus igniarus and Phellinus pipi at 10-1 mg/mL inhibited the haemolytic activity of the His-tag-VpC-terminal domain from 67.7% to 87.42%, respectively. Hence applying the His-tag-VpC-terminal domain as a simple biological material to evaluate quickly potential derivatives against the Vptlh in vivo conditions will accessible and more advantageous than using the whole of the Vptlh
    corecore