646 research outputs found

    ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG DINH DƯỠNG VÀ MÙA VỤ ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA TƠ NẤM Ở CÁC GIAI ĐOẠN NHÂN GIỐNG NẤM RƠM (Volvariella volvacea)

    Get PDF
    Tóm tắt: Nghiên cứu này xác định ảnh hưởng của 12 môi trường dinh dưỡng đến sự sinh trưởng và phát triển của tơ nấm rơm ở các giai đoạn nhân giống khác nhau. Kết quả cho thấy nấm rơm được phân lập nuôi trong môi trường MP2 (Dịch chiết khoai tây (100 g), dịch chiết giá đậu xanh (100 g), đường glucose (20 g), agar (10 g), KH2PO4 (3 g), MgSO4.7H2O (1,5 g), vitamin B1 (10 mg)) sinh trưởng và phát triển tốt hơn so với nuôi trong các môi trường MP1 (Dịch chiết khoai tây (200 g), đường glucose (20 g), agar (10 g)) và MP3 (Dịch chiết giá đậu xanh (200 g), đường glucose (20 g), agar (10 g)) với thời gian tơ nấm lan đầy môi trường ngắn nhất sau 5,54 ngày nuôi trong mùa khô và 7,55 ngày trong mùa mưa. Ở giai đoạn giống nấm rơm cấp 1, tơ nấm phát triển tốt nhất trong môi trường MC1-1 (Dịch chiết khoai tây (150 g), dịch chiết giá đậu xanh (50 g), đường glucose (20 g), agar (10 g), KH2PO4 (3g), MgSO4.7H2O (1,5 g), vitamin B1 (10 mg)) với thời gian tơ nấm lan đầy môi trường là 4,41 ngày trong mùa khô và 6,51 ngày trong mùa mưa. Ở giai đoạn giống nấm rơm cấp 2, tơ nấm phát triển tốt nhất trong môi trường MC2-2 (Rơm cắt nhỏ 2–3 cm + 5% cám gạo + 5% cám bắp + 1% đường) với thời gian tơ nấm lan đầy môi trường là 7,33 ngày trong mùa khô và 9,04 ngày trong mùa mưa. Ở giai đoạn giống nấm rơm cấp 3 tơ nấm phát triển tốt nhất ở môi trường MC3-3 (Rơm cắt nhỏ 5–8 cm + 7% cám gạo + 3% cám bắp + 1% đường), với thời gian tơ nấm lan đầy môi trường là 12,11 ngày trong mùa khô và 15,03 ngày trong mùa mưa. Mỗi giai đoạn giống có tỷ lệ nhiễm khác nhau, trong đó tỷ lệ nhiễm thấp nhất là ở giống cấp 1 (2,22–3,33%) và tỷ lệ nhiễm cao nhất là ở giống cấp 3 (7,78–8,89%).Từ khóa: môi trường dinh dưỡng, tơ nấm, giống nấm rơm, Volvariella volvace

    PHÂN VÙNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC CHO NUÔI TÔM Ở ĐẦM PHÁ TAM GIANG – CẦU HAI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA GIS

    Get PDF
    Tóm tắt: Phân vùng chất lượng nước cho mục đích nuôi tôm ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai được tiến hành với sự hỗ trợ của công nghệ GIS. Mẫu nước được thu ở 44 điểm trong mùa mưa và mùa khô. Kết quả cho thấy các yếu tố nhiệt độ, pH, DO, độ mặn, độ kiềm, N–NH3 mùa khô cao hơn mùa mưa. Giá trị trung bình của các yếu tố môi trường biến động qua các mùa như sau: 22,8–29,3 °C (nhiệt độ), 6,09–8,87 (pH), 3,76–8,25 mg/L (DO), 0,3–28,5‰ (độ mặn), 17,9–107 mg/L (độ kiềm) và 0,019–0,725 mg/L (N–NH3). Vùng diện tích có pH < 7, không phù hợp cho lấy nước nuôi tôm, chiếm 2,34% (mùa khô) và 26,7% (mùa mưa) diện tích đầm phá, phân bố chủ yếu ở phía Bắc phá Tam Giang và các khu vực gần bờ, gần các cửa sông đổ vào đầm phá, gần các kênh nước thải nuôi trồng thủy sản và sinh hoạt. Độ mặn thấp (dưới 5‰) không phù hợp cho nuôi tôm tập trung chủ yếu ở Bắc phá Tam Giang với 17,06% diện tích đầm phá. Vùng đầm phá với độ kiềm thấp (<60 mg/L), không phù hợp cho lấy nước nuôi tôm, chiếm 87,87% diện tích đầm phá (mùa mưa) và 34,21% diện tích đầm phá (mùa khô). Hàm lượng N–NH3 không phù hợp cho hoạt động nuôi tôm (≥0,3 mg/L) chiếm 23,2% diện tích đầm phá (mùa khô) và mùa mưa là 52,6% diện tích đầm phá.Từ khóa: chất lượng nước, Tam Giang – Cầu Hai, nuôi tô

    PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TRẢ NỢ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TẠI SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (HOSE)

    Get PDF
    The study aims to help real-estate businesses improve their repayment capacity. This study utilized panel data of real-estate businesses listed on Hochiminh Stock Exchange (HOSE) in the period of 2011-2015. To help these businesses improve the repayment capacity, the author analyzed the factors that affect repayment capacity. Accordingly, the random effects model (REM) is appropriate to analyze the factors that affect the repayment capacity of real-estate businesses listed on HOSE. In particular, factors such as return on assets (ROA) and asset turnover (SOA) have positive impacts on the repayment capacity, while return on equity (ROE), debt on assets ratio (DOA), and inflation (CPI) have negative impacts.Mục tiêu chính của nghiên cứu này là giúp các doanh nghiệp bất động sản nâng cao được khả năng trả nợ. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu là số liệu dạng bảng được thu thập chủ yếu từ các báo cáo tài chính của 35 doanh nghiệp bất động sản trong giai đoạn 2011-2015. Để giúp các doanh nghiệp bất động sản nâng cao được khả năng trả nợ, tác giả tiến hành phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. Theo đó, mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) là phù hợp khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Trong đó, các yếu tố tỷ số sinh lời tài sản (ROA) và số vòng quay tài sản (SOA) có tác động cùng chiều với khả năng trả nợ, trong khi tỷ số sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ số nợ trên tài sản (DOA), và lạm phát (CPI) có tác động nghịch chiều

    ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH CANH TÁC 2 LÚA + ĐẬU NÀNH TRÊN NỀN ĐẤT 3 VỤ LÚA TẠI TAM BÌNH, VĨNH LONG (2004-2007)

    Get PDF
    Mô hình 2 lúa + 1đậu nành (2L+1ĐN) được thực hiện ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long từ năm 2004-2007 nhằm so sánh hiệu quả của chúng so với mô hình 3 lúa hiện có. Sáu hộ nông dân được chọn, trong đó, 3 hộ thực hiện mô hình 2L+1ĐN và 3 hộ trồng 3 vụ lúa/năm (3L). Các chỉ tiêu về năng suất, chi phí sản xuất, thu nhập, lợi nhuận, hiệu quả đồng vốn và một số đặc tính quan trọng của đất được ghi nhận và phân tích. Kết quả, năng suất lúa ĐX tăng, nhưng không có ý nghĩa so với 3L. Năng suất lúa HT ở mô hình 2L+1ĐN cao hơn đối chứng 3L, do đóng góp dinh dưỡng sau khi trồng đậu nành XH. Chi phí sản suất ở 2L+1ĐN giảm làm cho lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn cao hơn so với 3L. Luân canh lúa-đậu nành sau 3 năm đã tăng hàm lượng NH4+ và P2O5. Tóm lại, mô hình luân canh 2L+1ĐN cần được khuyến cáo và áp dụng ở huyện Tam Bình nhằm tăng hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững

    14C Dating at the Geological Boreholes and Sedimentory in the Lower Mekong Delta

    Get PDF
    This paper presents the processing and chemical treatment methods for age determination of geological samples using - Task Benzene Synthesizer - and the liquid scintillation analyzer (Tri–Carb 2770 TR/SL) in the laboratory at the Institute of Archaeology (VASS-Vietnam Academy Social Sciences). From that, 15 samples of wood, peat, mollusk shell collected from geological drilling holes LKBT1, LKBT2, LKBT3 at the coastal estuary in Ben Tre were processed and determined ages. The obtained results have helped to elucidate the sedimentation of the coastal estuary in Ben Tre province from the late Pleistocene to the present

    ĐIỂM LẠI CÁC NGHIÊN CỨU HÓA HỌC VÀ HOẠT TÍNH SINH HỌC MỘT SỐ LOÀI SINH VẬT BIỂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2012

    Get PDF
    Nghiên cứu về hoá học các hợp chất  thiên nhiên biển ở Việt Nam được coi  là một  trong những hướng nghiên cứu quan  trọng  trong  thế kỉ  thứ 21.Tổng quan này đề cập đến những kết quả nghiên cứu gần đây của nhóm nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của một số nhóm sinh vật biển ở Việt Nam bao gồm: nhóm hải miên, nhóm san hô mềm và nhóm da gai. Các hợp chất thuộc lớp saponin, steroid, diterpene, glycolipid, và một số hợp chất khác đã được phân lập và xác định cấu trúc. Trong số các hợp chất thu được, có những hợp chất thể hiện hoạt tính gây độc tế bào trên một số dòng tế bào ung thư thử nghiệm, kháng sinh. Ngoài ra, một số hợp chất còn được đánh giá khả năng kháng viêm, chống  loãng xương và chống ô xy hóa. Những  thành  quả  nghiên  cứu  này  đóng  góp  rất  lớn  vào  kho  tàng  hóa học  các hợp  chất  thiên nhiên biển trên thế giới. Trên cơ sở những kết quả thu được, một số sản phẩm đã được triển khai phục vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng

    TỐC ĐỘ CHUYỂN DỊCH KIẾN TẠO GIAI ĐOẠN PLEISTOCEN GIỮA - MUỘN DỌC ĐỚI ĐỨT GÃY SÔNG HỒNG KHU VỰC LÀO CAI - VIỆT TRÌ

    Get PDF
    SUMMARY Slip rates during the Middle-Late Pleistocene period along Red River Fault Zone in Lao Cai - Viet Tri section The Red River Fault Zone (RRFZ) is one of the major faults, which plays an important role in Asia as well as in Vietnam. In the Cenozoic, the RRFZ has been undergone two stages of motion: left-lateral displacement in Oligo-Miocene time and right-lateral displacement from Pliocene to present. This study presents new evidences on right-lateral displacement showned by the offsets of terraces, streams, Quaternary sediments and weathering layer,… along the RRFZ from Lao Cai to Viet Tri area. These offsets are determined in the Middle-Late Pleistocene period with the amount of right-lateral slip is estimated from ~100m to ~1300m and the slip rate from 1.1mm/yr to 1.8mm/yr

    KIẾN TẠO HIỆN ĐẠI VÀ CÁC TAI BIẾN ĐỊA CHẤT LIÊN QUAN Ở VÙNG BIỂN VIỆT NAM VÀ LÂN CẬN

    Get PDF
    SUMMARY Neotectonics and geological hazards in Vietnam Sea and surroundings This paper presents velocities of present-day tectonic movements in Vietnam and surroundings determined from GPS campaigns from 2007 to 2010. Absolute displacements and velocities of GPS stations in the IGS05 frame were determined. The result indicates that Lang station (LANG) moves eastward with slip rate of ~39mm/yr, southward with slip rate of ~11 mm/yr. The rate of Bach Long Vi (BLV1) is ~30mm/yr for the eastern component and ~11mm/yr for southern component. Song Tu Tay (STT1) moves eastwards with the rate of ~24mm/yr and southwards of 8mm/yr. Con Dao (CDA1) moves to the east with the rate of ~22mm/yr and to the south with the rate of ~6mm/yr. Dong Hoi (DOHO) move to the east with the rate of ~27mm/yr and to the south with the rate of ~8mm/yr. Hue (HUES) moves to the east with the rate of ~30 mm/yr and to the south with the rate of ~12mm/yr. HOCM move to the east with the rate of ~22mm/yr and to the south with the rate of ~10mm/yr. Calculate errors for both direction vary in 0.6 - 1mm/y. Based on seismic profiles, focal mechanisms and regional stress field, several fault segments in Pliocene - Quaternary sediments in East Vietnam Sea has been identified in Red River, Cuu Long and Nam Con Son basins with maximum of 15 km in length. Actual stress regimes in Vietnam and south Hainan basins being transitional demonstrate no source of large tsunami closing to Vietnam shelf. The subduction zone located at north Borneo is not active at present. Only Manila subduction zone is the source for large tsunami in East Vietnam Sea. Based on gravimetric field, topography, distribution of focal mechanisms in various depths and the rate of actual tectonic movement, 5 fault zones of the Manila subduction zone have been divided. The fault zones F3 and F4 can produce respectively maximum earthquake of 8.1 and 8.4. Modeling of displacement of fault zone F4 from the depth 15 to 20 km, 2m high of tsunami at Quang Ngai can be occurred. The depth of tsunami flood can be up to 4-5 m at some places in Quang Ngai and Da Nang

    THAY ĐỔI NGUỒN VỐN SINH KẾ CỦA NÔNG HỘ TRONG BỐI CẢNH HẠN CHẾ TIẾP CẬN TÀI NGUYÊN RỪNG Ở VÙNG NÚI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

    Get PDF
    Nghiên cứu được thực hiện với số liệu điều tra 60 hộ ở xã Xuân Lộc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Xuân Lộc là nơi sinh sống của cộng đồng người Kinh và người Vân Kiều, trong đó sinh kế chủ yếu dựa vào tài nguyên rừng và nghiệp quy mô nhỏ. Nghiên cứu tìm hiểu sự thay đổi của các nguồn vốn sinh kế giữa nhóm hộ người Kinh và nhóm hộ người Vân Kiều trong bối cảnh hạn chế tiếp cận tài nguyên rừng và từ đó xác định các chiến lược sinh kế ưu tiên của từng nhóm. Nghiên cứu cho thấy: thứ nhất, nhóm hộ người Kinh có điều kiện để tiếp cận với các nguồn sinh kế dễ hơn, dẫn tới sinh kế đa dạng hơn so với nhóm hộ người Vân Kiều; thứ hai, cả hai nhóm hộ chuyển sang trồng rừng keo thay cho sản xuất nghiệp; cuối cùng, chiến lược ưu tiên của nhóm hộ người Kinh là trồng rừng keo và tiêu, còn đồng bào dân tộc Vân Kiều thì lựa chọn trồng keo và chăn nuôi. Do đó, chính quyền địa phương cần có những chính sách và khung hướng dẫn rõ ràng và cụ thể để hỗ trợ cộng đồng trong tiếp cận và phát triển sinh kế hướng tới bền vững, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số Vân KiềuTóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện với số liệu điều tra 60 hộ ở xã Xuân Lộc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Xuân Lộc là nơi sinh sống của cộng đồng người Kinh và người Vân Kiều, trong đó sinh kế chủ yếu dựa vào tài nguyên rừng và nghiệp quy mô nhỏ. Nghiên cứu tìm hiểu sự thay đổi của các nguồn vốn sinh kế giữa nhóm hộ người Kinh và nhóm hộ người Vân Kiều trong bối cảnh hạn chế tiếp cận tài nguyên rừng và từ đó xác định các chiến lược sinh kế ưu tiên của từng nhóm. Nghiên cứu cho thấy: thứ nhất, nhóm hộ người Kinh có điều kiện để tiếp cận với các nguồn sinh kế dễ hơn, dẫn tới sinh kế đa dạng hơn so với nhóm hộ người Vân Kiều; thứ hai, cả hai nhóm hộ chuyển sang trồng rừng keo thay cho sản xuất nghiệp; cuối cùng, chiến lược ưu tiên của nhóm hộ người Kinh là trồng rừng keo và tiêu, còn đồng bào dân tộc Vân Kiều thì lựa chọn trồng keo và chăn nuôi. Do đó, chính quyền địa phương cần có những chính sách và khung hướng dẫn rõ ràng và cụ thể để hỗ trợ cộng đồng trong tiếp cận và phát triển sinh kế hướng tới bền vững, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều. Từ khóa: chiến lược sinh kế, người Vân kiều, nguồn vốn sinh kế, tỉnh Thừa Thiên Hu

    KHẢ NĂNG PHÂN HUỶ POLY (L-LACTIC) CỦA MỘT SỐ CHỦNG XẠ KHUẨN PHÂN LẬP TẠI VIỆT NAM

    Get PDF
    SUMMARYDegradable polymers are increasingly considered as an attractive alternative to the current petroleum-derived plastics from the viewpoint of environmental protection and solid-waste management. Various types of biodegradable polyesters are presently manufactured, such as poly (L- lactide) (PLA), poly (b-hydroxybutyrate) (PHB), poly (e-caprolactone) (PLC) and poly (butylenes succinate) (PBS)... We used the plate count and clear zone methods to evaluate the distribution of polyester-degrading microorganism in different soil environments and found some actinomyces were degraded PLA. Two of them, strains XKG3 and XKG5 were created large clear zone on agar plate containing PLA as carbon sources. Base on morphology and some of biochemistry characterizations two actinomyces trains isolated XKG3 and XKG5 were belong to Streptomyces groups. Strains XKG3 and XKG5 after 20 days cultivation were degraded from 41.04% to 53.42% total PLA (base on molecular weight) added in the media culture and 51.75% to 65.91%, respectively total amounts of PHB. Two strains could grew well in the media have only PLA film as carbon and energy sources. Two actinomyces have ability produce some enzymes degradable such as amylase, protease, cellulase. Further studies with the selected microorganisms will help us to better understand their actual potential to biodegradation of biopolymer.SUMMARYDegradable polymers are increasingly considered as an attractive alternative to the current petroleum-derived plastics from the viewpoint of environmental protection and solid-waste management. Various types of biodegradable polyesters are presently manufactured, such as poly (L- lactide) (PLA), poly (b-hydroxybutyrate) (PHB), poly (e-caprolactone) (PLC) and poly (butylenes succinate) (PBS)... We used the plate count and clear zone methods to evaluate the distribution of polyester-degrading microorganism in different soil environments and found some actinomyces were degraded PLA. Two of them, strains XKG3 and XKG5 were created large clear zone on agar plate containing PLA as carbon sources. Base on morphology and some of biochemistry characterizations two actinomyces trains isolated XKG3 and XKG5 were belong to Streptomyces groups. Strains XKG3 and XKG5 after 20 days cultivation were degraded from 41.04% to 53.42% total PLA (base on molecular weight) added in the media culture and 51.75% to 65.91%, respectively total amounts of PHB. Two strains could grew well in the media have only PLA film as carbon and energy sources. Two actinomyces have ability produce some enzymes degradable such as amylase, protease, cellulase. Further studies with the selected microorganisms will help us to better understand their actual potential to biodegradation of biopolymer
    corecore