Journal of Vietnamese Environment
Not a member yet
249 research outputs found
Sort by
Using cassava waste of the cassava starch processing as food for raising African Nightcrawler (Eudrilus eugeniae) to obtain vermicomposting and earthworm biomass: Sử dụng chất thải sắn của quá trình chế biến tinh bột sắn làm thức ăn nuôi giun quế African Nightcrawler (Eudrilus eugeniae) nhằm thu nhận phân trùn và sinh khối giun
The raising earthworms by cassava waste is a useful solution to reduce environmental pollution caused by cassava starch processing. In this study, cassava waste (including cassava peel, cassava pieces and soil) was used as a food source for raising African Nightcrawler (Eudrilus eugeniae) with three experiments: E1, earthworms were raised in crushed cassava waste right after being discharged; E2, earthworms raised in crushed cassava waste that had been incubated with organic matter after decomposing microbiological preparation for the previous two weeks; E3, earthworms were raised in crushed cassava waste that had self-decomposed naturally for the previous two weeks. The cassava waste was decomposed naturally for 4 weeks for control. The results showed that the content of organic matter, humic acid and total nitrogen in organic cassava humus, obtaining from experiments, increased compared to the control; the total organic matter content reached from 10.4%-15.7%, higher than the control (8.2%) from 1.27-1.92 times, humic acid content reached 0.6 - 0.8% and total nitrogen reached 0.3%. Experiment 3 had the highest quality of humus (organic matter content 15.7%, total nitrogen 0.3%, humic acid 0.7% and fulvic acid 0.5%). The experiment 3 also had the highest earthworm biomass (3.6kg), increasing 30.5% compared to experiment 1 and 19.4% comparing to experiment 2. Therefore, experiment 3 was proposed for application in treatment of cassava waste at larger scale. The organic humus obtaining from raising earthworms by cassava waste can be used as raw material for vermicompost production. The earthworm biomass can be used as protein-rich food for domestic animals (such as chicken, tortoise, eel, fish, etc) or used as nutritious fertilizer.
Nuôi giun bằng phế liệu sắn là giải pháp hữu ích nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường do chế biến tinh bột sắn gây ra. Trong nghiên cứu này, bã thải sắn (bao gồm vỏ, đầu mẩu sắn và bùn đất) được sử dụng làm nguồn thức ăn giun đất Châu Phi (African Nightcrawler (Eudrilus eugeniae) với các thí nghiệm như sau: Thí nghiệm 1: Giun quế được nuôi trong bã thải sắn nghiền ngay sau khi được loại bỏ; Thí nghiệm 2: giun đất được nuôi trong bã thải sắn nghiền đã được ủ với chế phẩm vi sinh phân hủy chất hữu cơ trong hai tuần trước đó; Thí nghiệm 3: Giun đất được nuôi trong bã thải sắn nghiền được để tự phân hủy tự nhiên trong hai tuần trước đó. Đối chứng là bã thải sắn để phân hủy tự nhiên trong 4 tuần. Bên cạnh đó, bã thải sắn nghiền còn được ủ bằng chế phẩm vi sinh phân hủy chất hữu cơ trong 4 tuần để cung cấp thêm số liệu so sánh giữa các thí nghiệm (Thí nghiệm 4). Các thí nghiệm được theo dõi trong 4 tuần. Kết quả cho thấy: Kết quả cho thấy: hàm lượng chất hữu cơ, axit humic và nitơ tổng trong mùn sắn hữu cơ thu được từ thí nghiệm đều tăng so với đối chứng: hàm lượng chất hữu cơ tổng số đạt từ 10,4% -15,7%, caohơn đối chứng (8,2%) so với 1,27-1,92 lần, hàm lượng axit humic đạt 0,6 - 0,8% và nitơ tổng số đạt 0,3%. Trong đó, thí nghiệm 3 có chất lượng mùn cao nhất (hàm lượng chất hữu cơ 15,7%, đạm tổng số 0,3%, axit humic 0,7% và axit fulvic 0,5%). Thí nghiệm 3 cũng có sinh khối giun quế cao nhất (3,6kg), tăng 30,5% so với thí nghiệm 1 và 19,4% so với thí nghiệm 2. Do đó, thí nghiệm 3 đã được đề xuất ứng dụng để xử lý phế thải sắn ở quy mô lớn hơn. Chất mùn hữu cơ thu được từ việc nuôi trùn quế bằng phế thải sắn có thể được sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất phân trùn quế. Sinh khối trùn quế có thể dùng làm thức ăn giàu đạm cho vật nuôi (như gà, ba ba, lươn, cá ...) hoặc làm phân bón dinh dưỡng
Indigenous knowledge in climate change adaptation: Case studies of ethnic minorities in the Northern Mountain Region of Vietnam: Kiến Thức Bản Địa Trong Thích Ứng Biến Đổi Khí Hậu: Nghiên cứu trường hợp của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Vùng Núi Phía Bắc Việt Nam
This study aims to investigate the indigenous knowledge (IK) of three ethnic minority groups in the Northern Mountain Region (NMR) of Vietnam. The groups include (1) Tay people who live at lower elevations; (2) a Dao community who tend to live in the middle elevations and (3) Hmong farmers who mainly reside at higher elevations areas of the mountain. This research intends to identify climate change (CC) and its impact on agricultural cultivation and find out how these groups can adapt to CC by applying their IK in agriculture practices. Data was collected through focus group discussions (n=9), in-depth interviews (n=80), and participant observation. From the 80 respondents, 27 live in Bac Kan province, 23 in Yen Bai province and 30 in Son La province; those who had experience in agricultural production, elderly and village heads. The results show that the NMR weather has significant changes that negatively impact agriculture cultivation and local livelihood. Although the respondents are from different ethnic minorities, these farmers are highly aware of the CC risks, leading into adaptation practices. While the Tay people\u27s major adaptation strategies include the use of a variety of native plants and changing planting calendars, the Dao and Hmong people apply intercropping and local techniques methods in terracing fields using local varieties of livestock. Our findings highlight the importance of using the IK of ethnic minorities in adaptation towards CC. A better targeting about the use of local resources in future national policies and projects is encouraged.
Nghiên cứu này nhằm thu thập kiến thức bản địa (IK) của ba nhóm dân tộc thiểu số ở Miền núi phía Bắc (MNPB) của Việt Nam bao gồm (1) dân tộc Tày chủ yếu sống ở vùng thấp; (2) Người Dao có xu hướng sống ở các độ cao trung bình; và (3) người Hmông chủ yếu cư trú ở các khu vực đồi núi cao. Nghiên cứu này nhằm xác định tình hình biến đổi khí hậu (BĐKH) và tác động của nó đối với sản xuất nông nghiệp, đồng thời tìm hiểu cách thức các nhóm dân tộc thiểu số này có thể thích ứng với BĐKH bằng cách áp dụng các kiến thức bản địa của họ vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Dữ liệu được thu thập thông qua thảo luận nhóm tập trung (n = 9), phỏng vấn sâu (n = 80) và quan sát người tham gia. Trong số 80 người được hỏi, có 27 người sống ở tỉnh Bắc Kạn; 23 người ở tỉnh Yên Bái và 30 người ở tỉnh Sơn La, là những người có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, người cao tuổi và trưởng thôn. Kết quả cho thấy thời tiết ở khu vực MNPB đã có những thay đổi so với trước gây tác động xấu đến canh tác nông nghiệp và sinh kế của cộng đồng. Mặc dù những người được hỏi từ các dân tộc khác nhau nhưng họ đều nhận thức được sự thay đổi này của thời tiết, do đó họ đã có những thích ứng riêng. Trong khi người Tày sử dụng giống cây trồng địa phương và thay đổi lịch thời vụ thì người Dao và Hmong chọn phương pháp xen canh và áp dụng kỹ thuật bản địa trên đất ruộng bậc thang và sử dụng gióng vật nuôi bản địa. Các phát hiện của chúng tôi giúp hiểu được tầm quan trọng của việc sử dụng IK trong thích ứng với BĐKH của các dân tộc thiểu số, từ đó có thể hướng đến mục tiêu tốt hơn việc sử dụng các nguồn lực địa phương trong các chính sách và dự án quốc gia trong tương lai
Assessing damages of agricultural land due to flooding in a lagoon region based on remote sensing and GIS: case study of the Quang Dien district, Thua Thien Hue province, central Vietnam: Đánh giá thiệt hại do ngập lụt đến sử dụng đất nông nghiệp tại vùng đầm phá dựa vào công nghệ viễn thám và GIS: trường hợp nghiên cứu tại huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, miền Trung Việt Nam
This study aims to create a flood extent map with Sentinel imagery and to evaluate impacts on agricultural land in the lagoon region of central Vietnam. In this study, remote sensing images, obtained from 2017 to 2019, were used to simultaneously map the land cover status of a flood in the Quang Dien district. This study highlights flooded areas from Sentinel-2 images by calculating some indicators such as the Land Surface Water Index (LSWI) and the Enhanced Vegetation Index (EVI). Comparisons between the floodplain samples (GPS point-based) and flood mapping results, with the ground-truth data, indicate that the overall accuracy and Kappa coefficients were 97.9% and 0.62 respectively for 2017; the values for 2019 were 95.7% and 0.77 for the same coefficients. Land use maps overlying the flood-affected maps show that approximately 11% of the agriculture land area was affected by floods in 2019 comparison to a 10% in 2017. Wet rice was the most affected crop with the flooded area accounting for more than 70% of the district under each flood event. The most affected communes are: Quang An, Quang Phuoc and Quang Thanh. This study provides valuable information for flood disaster planning, mitigation and recovery activities in Vietnam.
Mục tiêu của nghiên cứu là lập bản đồ phân bố ngập lụt với hình ảnh vệ tinh Sentinel và đánh giá ảnh hưởng ngập lụt đến sử dụng đất nông nghiệp ở vùng đầm phá miền Trung, Việt Nam. Trong nghiên cứu này, ảnh viễn thám thu nhận giai đoạn 2017- 2019 được sử dụng để xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm bị ngập nước trên địa bàn huyện Quảng Điền. Nghiên cứu đã xác định được vùng ngập lụt ở huyện Quảng Điền bằng phương pháp phân loại chỉ số mặt nước (Land Surface Water Index – LSWI) và chỉ số khác biệt thực vật (Enhanced Vegetation Index-EVI) từ ảnh Sentinel-2. Xác định vùng nước lũ bị che khuất bởi mây bằng mô hình số hóa độ cao (DEM). Kết quả phân loại vùng ngập lụt được so sánh với giá trị tham chiếu mặt đất cho thấy độ chính xác tổng thể và hệ số Kappa đạt được trong năm 2017 là 97,9% và 0,62; trong khi năm 2019 đạt 95,7% và 0.77. Bản đồ sử dụng đất chồng lên bản đồ lũ lụt cho thấy khoảng 11% diện tích đất nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi lũ lụt năm 2019 so với 10% năm 2017. Cây lúa nước là cây trồng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với diện tích bị ngập lụt chiếm hơn 70% diện tích lúa của huyện. Các xã bị ngập lớn là xã Quảng An, Quảng Phước và Quảng Thành. Nghiên cứu này cung cấp thông tin có giá trị cho các hoạt động lập kế hoạch, giảm nhẹ và phục hồi thiên tai lũ lụt ở Việt Nam
Determining the content of toxic elements (Pb, Cd, and As) in herbal plants collected from different sites in northern Vietnam: Phân tích hàm lượng của các nguyên tố độc hại (Pb, Cd và As) trong các cây thảo dược được thu hái tại các khu vực khác nhau ở miền bắc Việt Nam
Plants might contain heavy metals from the surrounding polluted environment. Medicinal herb and plants, commonly used in Vietnam, may pose a risk to public health when polluted with heavy metals such as Pb, Cd and As. This study aims to investigate the content of Pb, Cd, and As in five selected herb plants (Phyllanthus urinaria L., Plantago asiatica L., Eleusine indica L., Wedelia chinensis (Osbeck) Merr, and Artemisia vulgaris L.). The samples were collected from natural sites in some provinces in northern Vietnam. The concentrations of Pb, Cd, and As were determined by the Inductively coupled plasma mass spectrometry (ICP-MS) method. The content of Pb, Cd and As was 0.247 ÷ 32.080 mg kg-1, 0.000 ÷ 1.099 mg kg-1, 0.000 ÷ 2.261 mg kg-1, respectively. A total of 50 out of the 58 investigated samples had concentrations of Pb, Cd, As lower than the permissible values of the World Health Organization (WHO). The remaining samples had contents of Pb or Cd or As significantly higher than the permissible limit defined by WHO.
Thực vật có thể bị ô nhiễm do hấp thụ kim loại nặng từ môi trường ô nhiễm xung quanh. Các loại cây thảo dược được sử dụng phổ biến làm thuốc chữa bệnh ở Việt Nam. Chúng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng khi bị ô nhiễm kim loại nặng (Pb, Cd...vv.). Nghiên cứu này nhằm điều tra hàm lượng Pb, Cd và As trong năm loại cây thảo dược (cây Diệp Hạ Châu, cây Mã Đề, cây Cỏ Mần Trầu, cây Sài Đất và cây Ngải Cứu). Các mẫu cây này được lấy từ các địa điểm mọc tự nhiên ở một số tỉnh khác nhau thuộc khu vực miền bắc Việt Nam. Hàm lượng của Pb, Cd, và As được xác định bằng phương pháp ICP-MS. Hàm lượng Pb, Cd và As trong các mẫu phân tích lần lượt nằm trong khoảng là 0.247 ÷ 32.080 mg. Kg-1, 0.000 ÷ 1.099 mg. Kg-1, 0.000 ÷ 2.261 mg. Kg-1. 50 trên 58 mẫu phân tích có hàm lượng Pb, Cd, As thấp hơn giới hạn cho phép do tổ chức y tế thế giới (WHO) quy định. Có 8 trên 58 mẫu cây phân tích có hàm lượng Pb hoặc, Cd hoặc As cao hơn tiêu chuẩn giới hạn của WHO
Assessment of physical land suitability by GIS-based fuzzy AHP for rubber plantation at the Nam Dong district, Thua Thien Hue province: Ứng dụng GIS và Fuzzy AHP đánh giá sự thích nghi tự nhiên cho loại hình sử dụng đất trồng cây cao su trên địa bàn huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
This research was conducted to determine the main influences and physical factors of land suitability for rubber plantation in the Nam Dong district, Thua Thien Hue province. Six factors such as soil type, soil texture, soil thickness, slope, soil pH and soil organic matter content were considered. Results indicate that soil thickness is has the highest role on the land suitability analysis while soil pH has the lowest. The physical land suitability of rubber plantation was divided into 4 levels: very suitable (10.1%), suitable (15.5%), slightly suitable (3.6%), and currently not suitable (70.8%). This research provides important information for rubber cultivation in projected agricultural land use planning of the Nam Dong district.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến sự thích nghi đất đai của loại hình sử dụng đất trồng cây cao su trên địa bàn huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có 6 yếu tố được xem xét trong nghiên cứu này bao gồm: loại đất, thành phần cơ giới, tầng dày canh tác, độ dốc, độ chua và hàm lượng mùn trong đất. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tầng dày canh tác là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến việc sử dụng đất trồng cây cao su, trong khi đó độ chua là yếu tố có ảnh hưởng ít nhất. Sự thích nghi tự nhiên của loại hình sử dụng đất trồng cây cao su được chia thành 4 mức độ bao gồm rất thích nghi (10,1%), thích nghi (15,5%), tương đối thích nghi (3,6%) và hiện taị không thích nghi (70,8%). Nghiên cứu này cung cấp những thông tin cần thiết và hữu ích cho việc quy hoạch sử dụng đất trồng cây cao su trên địa bàn huyện Nam Đông
The potential of combining UAV and remote sensing in supporting precision mapping of irrigation systems for paddy land in urban agricultural areas: study case in the Hoa Vang district, Danang city, Central Vietnam: Nghiên cứu tiềm năng kết hợp UAV với Viễn thám trong việc hỗ trợ độ chính xác của bản đồ hệ thống nguồn nước tưới cho đất trồng lúa ở vùng nông nghiệp đô thị: Trường hợp nghiên cứu ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Miền Trung Việt Nam
This research was carried out to test the potential of combining unmanned aerial vehicle (UAV) and remote sensing (RS) to support precision mapping of irrigation systems for paddy land. The study area is an urban/agricultural area of Central Vietnam. The Sentinel-2A imagery acquired on 30 June 2018 was interpreted according an object-based classification method aiming to map paddy land and irrigation systems for the Hoa Vang district; the total accuracy was 91.33% with a Kappa coefficient of 0.87. However, with the spatial resolution from the Sentinel-2A images (20 meters x 20 meters) it was difficult to classify paddy land and water from other objects within small and scattered parcel areas. This research was designed on five experimental flying zones, collecting 2,085 images by the UAV. With the very high spatial resolution data of the UAV, it was possible to clearly identify the boundaries of paddy land parcels, water sources such as rivers and lakes, and other objects such as canals and concrete irrigation systems. This classification derived from the orthogonal images from the five experimental zones using an object-based classification method, correcting the interpretation results of the Sentinel 2A images. Outcomes indicate that, the combination of UAV and RS can be applied to support precision mapping of irrigation systems for paddy land in urban agricultural areas.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm thử nghiệm khả năng kết hợp giữa UAV với viễn thám trong hỗ trợ độ chính xác của bản đồ hệ thống nước tưới cho đất trồng lúa ở vùng nông nghiệp đô thị tại Miền trung Việt Nam. Ảnh viễn thám Sentinel- 2A thu nhận vào 30/6/2018 đã được giải đoán bằng phương pháp định hướng đối hướng để thành lập bản đồ hệ thống nguồn nước tưới cho huyện Hòa Vang vào năm 2018, với kết quả độ chính xác tổng số là 91,33% và hệ số kappa là 0,87. Mặc dù với kết quả giải đoán có độ chính xác cao nhưng với độ phân giải không gian của ảnh Sentinel-2A là 20m x 20m rất khó để phân loại được các vùng đất lúa có diện tích nhỏ và phân bố phân tán. Nghiên cứu này đã thiết kế 5 khu vực bay thử nghiệm với 2.085 ảnh để thu thập dữ liệu từ UAV. Có thể thấy rằng dữ liệu ảnh từ UAV với độ phân giải siêu cao có thể nhận diện và phân biệt được một cách rõ ràng không chỉ ranh giới của các thửa đất lúa, hệ thống nguồn nước như sông hồ, mà còn cả những đối tượng kênh mương thủy lợi nhỏ. Kết quả giải đoán các ảnh bay chụp bằng UAV sử dụng dụng phương pháp định hướng đối tượng, nghiên cứu này đã hiệu chỉnh được kết quả giải đoán ảnh Sentinel 2A. Kết quả cho thấy việc kết hợp dữ liệu viễn thám với UAV là hoàn toàn có khả năng sử dụng để hỗ trợ độ chính xác thành lập bản đồ hệ thống nguồn nước cho đất trồng lúa ở vùng nông nghiệp đô thị
Transfer of elements from paddy soils into different parts of rice plants (Oryza sativa L.) and the resulting health risks for the Vietnamese population: Sự vận chuyển các nguyên tố từ đất vào các phần của cây lúa (Oryza sativa L.) và đánh giá các rủi ro sức khỏe đối với người dân Việt Nam
The uptake of elements from paddy soils into shoot, husk, and unpolished grain of rice plants was investigated in Mekong, Huong, and Red River areas in Vietnam. The transferability of most studied soil elements into plant parts decreases in the order: shoot > husk > grain. Exceptions are Mg, S, Cd, Cu, Zn, and Mo, whose transfer drops in the order: shoot > grain > husk, the transfer of P falls in the order grain > shoot > husk. The translocation of the most health relevant elements into the different plant parts is affected by soil parameters like pH, organic matter, Fe- and Mn-phases, and clay minerals. Health risk assessment approaches for the average daily rice consumption are performed for non- cancer risk (Hazard Index - HI) including the elements As, Cd, Pb, Co, Cu, Mn, Mo, and Ni as well as for cancer risk for the elements As and Pb (Incremental Lifetime Cancer Risk - ∑ILCR). All rice studied grain samples exceed the safe HI-index of below 1. 81% of the grain samples were within the level of concern ranging between 1.4 < HI < 5, 18% varied between 5 < HI < 8.4, although their corresponding soils showed only a little pollution. Cd, As, Mn, and Pb were the most important elements causing non-cancer risks for rice-consuming people. The cancer-risk values ∑ILCR were mean 2.2 x 10-3 and are considerably higher than the safe threshold of 10-4 to 10-6. Arsenic is the dominant factor for cancer risk. Rice-eating people living in Red River and Huong River areas face mainly health risks of exposure to As and Cd in the Mekong River area in addition to Pb.
Sự di chuyển của các nguyên tố từ đất vào các bộ phận khác nhau của cây lúa được tiến hành nghiên cứu tại cùng đồng bằng sông Mekông và sông Hồng, và tại sông Hương, và sông Hồng ở Việt Nam. Sự vận chuyển của hầu hết các nguyên tố đi vào cây lúa có xu hướng giảm dần theo thứ tự: thân > vỏ trấu > hạt. Ngoại trừ sự vận chuyển của các nguyên tố Mg, S, Cd, Cu, Zn, và Mo giảm dần theo thứ tự: thân > hạt > vỏ trấu; và nguyên tố P giảm dần từ: hạt > thân > vỏ trấu. Sự vận chuyển các nguyên tố vào các bộ phận của cây bị ảnh hưởng bởi các điều kiện của đất như pH, hàm lượng chất hữu cơ, dạng Fe và Mn, và các khoáng sét. Đánh giá các rủi ro sức khỏe của người dân khi tiêu thụ gạo hàng ngày được thể hiện thông qua các chỉ số rủi ro không ung thư (HI) của các nguyên tố As, Cd, Pb, Co, Cu, Mn, Mo, và Ni; cùng với chỉ số rủi ro ung thư của As và Pb (∑ILCR). Tất cảcácmẫugạođượcphântíchvượtquáchỉsốantoàn HI<1.81%củacácmẫucóchỉsốHInằmtrongkhoảng1.4<HI< 5 và 18% các mẫu trong 5 < HI < 8.4, mặc dù các mẫu đất tương ứng được kiểm tra đều khônghoặc rất ít thể hiện sự ô nhiễm. Các nguyên tố Cd, As, Mn, và Pb là những tác nhân quan trọng nhất gây ra các rủi ro không ung thư cho những người tiêu thụ gạo. Rủi ro ung thư ∑ILCR có giá trị trung bình 2.2 x 10-3 và cao hơn đáng kể so với ngưỡng an toàn 10-4 - 10-6, trong đó As là một tác nhân gây ung thư nổi bật. Những người sống ở khu vực sông Hồng và sông Hương đang đối mặt với sự phơi nhiễm As và Cd; trong khi đó người dân ở khu vực sông Mekông bị phơi nhiễm thêm Pb từ gạo
An update and reassessment of vascular plant species richness and distribution in Bach Ma National Park, Central Vietnam: Cập nhật và đánh giá sự phong phú và phân bố của các loài thực vật bậc cao tại Vườn Quốc Gia Bạch Mã, Việt Nam
Bach Ma National Park (BMNP) is recognized as an essential biodiversity hotspot in Vietnam because of its diverse topography, high species richness and threatened and endemic species. This study updates the richness and distribution of vascular plant species in the BMNP by intergrading data from literature, field surveys, key-informant interviews and participatory observations. Our results showed that the park has a high diversity of vascular plants with 1,874 species belonging to 192 families, 6 phylums including Psilotophyta, Lycopodiophyta, Equisetophyta, Polypodiophyta, Pinophyta, and Magnoliophyta. It also indicates that 199 out of 1,874 vascular species in the BMNP are listed as endangered, precious and rare plant species of Vietnam. In particular, 55 species are part of the IUCN 2020 list, in which 9 are critically endangered species (CR), 15 are endangered species (EN), and 31 are vulnerable species (VU). According to the rankings of the Red List Vietnam (2007), 6 species of CR (accounting for 13.64% compared with the whole country), 36 species of EN (20%), and 52 species of VU (26%) were found in this area. The results provided that vascular plant species are distributed into 2 types based on high altitude (threshold at 900m), but there are no dominant communities. The findings may be essential information for foresters and biologists to recognize and use it as the newest update for their next scientific research in conservation and resource management.
Vườn Quốc gia (VQG) Bạch Mã được xem là một điểm nóng đa dạng sinh học quan trọng ở Việt Nam vì địa hình đa dạng, độ phong phú loài cao, đặc biệt là các loài đặc hữu và nguy cấp. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã cập nhật sự phong phú và phân bố của các loài thực vật bậc cao tại VQG Bạch Mã bằng cách kết hợp dữ liệu từ tổng quan tài liệu, khảo sát thực địa, phỏng vấn người am hiểu và điều tra có sự tham gia. Kết quả cho thấy VQG có hệ thực vật bậc cao phong phú với 1.874 loài, thuộc 192 họ, 6 ngành bao gồm Psilotophyta, Lycopodiophyta, Equisetophyta, Polypodiophyta, Pinophyta, Magnoliophyta. Kết quả chỉ ra rằng 199 trong số 1.874 loài thực vật bậc cao tại VQG này được xếp vào danh sách các loài nguy cấp của Việt Nam. Đặc biệt, có 55 loài thuộc danh mục của IUCN năm 2020, trong đó có 9 loài Cực kỳ nguy cấp (CR), 15 loài Nguy cấp (EN) và 31 loài Sẽ nguy cấp (VU). Trong khi đó, theo xếp hạng của Sách Đỏ Việt Nam (2007), nghiên cứu cho thấy có 6 loài CR (chiếm 13,64% so với cả nước), 36 loài EN (20%) và 52 loài VU (26%). Phát hiện của chúng tôi cũng chỉ ra rằng đặc điểm phân bố của các loài thực vật bậc cao ở VQG Bạch Mã gồm 2 kiểu rừng dựa trên độ cao (mức 900m), nhưng không có quần xã nào chiếm ưu thế. Các kết quả này được kỳ vọng sẽ là nguồn thông tin cần thiết cho các nhà hoạt động lâm nghiệp và sinh vật học sử dụng nó như một bản cập nhật mới nhất cho các nghiên cứu khoa học tiếp theo trong bảo tồn và quản lý tài nguyên
Linking land subsidence to soil types within Hue city in Central Vietnam: Liên kết giữa sụt lún với các loại đất ở thành phố Hue miền Trung Việt Nam
Coastal areas of Southeast Asia are progressively threatened by flooding as a consequence of more frequent precipitation extremes and rising sea levels. Especially urban areas are affected by flood risk which is additionally increased by surface subsidence related to building activities and groundwater extraction. However, the severity of subsidence as well as its triggers and environmental interrelations are only little understood. This study measures surface subsidence for Hue city by using persistent scatterer radar interferometry (PS-InSAR). A series of 53 images acquired by the Sentinel-1 radar satellite between 2018 and 2019 was analyzed to reliably retrieve surface changes at the millimeter scale. The overall displacement ranges between -25 and +10 millimeters per year. Its spatial distribution was then compared to the extent of different soil types in the study area to conduct an analysis of variance (ANOVA). The results confirmed a significant difference between the soil types with Plinthic Acrisols as the soil type having the largest negative average surface velocity. Possible triggers are the intrusion of slack water from the surrounding rice cultivation areas and construction activities which lead to increasing weight and soil compaction. The findings shall raise awareness for the topic and underline the demand for further research.
Mưa lớn và nước biển dâng là những nguyên nhân gây lũ lụt ngày càng nghiêm trọng ở các khu vực ven biển Đông Nam Á. Đặc biệt việc gia tăng công trình xây dựng và khai thác nước ngầm gây sụt lún bề mặt dẫn đến ngập lụt ở các vùng đô thị. Tuy nhiên, các nghiên cứu về mối tương quan giữa sụt lún bề mặt với các hiện tượng môi trường chưa được chú trọng nhiều. Trong nghiên cứu này, độ lún bề mặt của thành phố Hue được đo bằng phương pháp giao thoa radar tán xạ liên tục (PS-InSAR). Phân tích 53 ảnh vệ tinh Sentinel-1 từ năm 2018-2019 cho thấy sự thay đổi tổng thể bề mặt dao động từ -25mm đến 10mm mỗi năm. Phân tích phương sai (ANOVA) cho thấy sự thay đổi bề mặt khác nhau tùy từng loại đất, trong đó đất đỏ vàng (Plinthic Acrisols) có tốc độ sụt lún trung bình cao nhất. Các tác nhân có thể là do sự xâm nhập của nước từ các vùng trồng lúa xung quanh và các hoạt động xây dựng dẫn đến tăng trọng lượng và nén đất. Những phát hiện này là cơ hội nâng cao nhận thức về sự sụt lún bề mặt và cần được nghiên cứu thêm
Adaptation of leaf morphology of the Eurycoma longifolia Jack to different site conditions in the province of Thua Thien Hue, Central Vietnam: Sự thích nghi của hình thái lá với các điều kiện sống khác nhau ở cây Bách bệnh (Eurycoma longifolia Jack) tại tỉnh Thừa Thiên Huế, miền Trung Việt Nam
Leaf area and stomata are important parameters in studies of taxonomic classification since both parameters might reflect the plant adaptation mechanisms to different environmental conditions. This study analyzed Eurycoma longifolia Jack leaf traits in different ecological regions (moisture zone: A Luoi, Bach Ma, Nam Dong; dry zone: Phong Dien) and leaves of seedlings in the nursery. The study used scanners and Images to measure leaf area; imagej and the AxioVision SE64 softwares were used to evaluate stomatal density by separating the lower cuticle through a clear nail polish impression. Our results showed that the leaf area of mature trees from the dry zone is smaller (355.7 and 484.1 cm2/leaf), however, the stomata density is higher than that of the humid area (284.4 and 137.9 stomata/mm2). Under the same nursery conditions, the seedlings\u27 leaf area was similar while seedlings\u27 stomatal density, originated from the dry zone, was lower. Results indicate that the stomatal density changes as an adaptation to changing habitat conditions. This study gives indicates that E. longifolia is a tree species with high adaptability given the leaf morphology changes under a changing climate. Therefore, this tree species should be a priority for planting in order to increase biodiversity in different ecological regions.
Đặc điểm diện tích lá và mật độ khí khổng là những thông số quan trọng trong các nghiên cứu phân loại học nhằm phản ánh cơ chế thích nghi của thực vật với điều kiện sống. Vì thế nghiên cứu này đã tiến hành phân tích các đặc điểm của lá cây Bách bệnh (Eurycoma longifolia Jack) từ các vùng khác nhau (A Lưới, Bạch Mã, Nam Đông: vùng ẩm và Phong Điền: vùng khô) và lá cây con của chúng ở vườn ươm. Nghiên cứu đã sử dụng máy quét và ImageJ để đo diện tích lá và phần mềm AxioVision SE64 và ImageJ để đánh giá mật độ khí khổng thông qua tách lớp biểu bì phía dưới lá qua lớp sơn mỏng Kết quả nghiên cứu cho thấy, diện tích lá của cây trưởng thành từ vùng khô nhỏ hơn (355.7 and 484.1 cm2/leaf) nhưng mật độ khí khổng lại lớn hơn so với vùng ẩm (284.4 and 137.9 stomata/mm2). Tuy nhiên, cùng điều kiện sống ở vườn ươm, diện tích lá của cây con tương tự nhau trong khi mật độ khí khổng của cây con có nguồn gốc từ vùng khô lại thấp hơn. Kết quả này chỉ ra rằng sự thay đổi của mật độ khí khổng như là một sự thích nghi với thay đổi của điều kiện môi trường sống. Từ đó nghiên cứu này cho thấy cây Bách bệnh là một loài cây gỗ với khả năng thích nghi cao nhờ sự thay đổi về đặc điểm hình thái lá khi thay đổi khí hậu cho nên loài cây này nên được ưu tiên trong việc gây trồng nhằm tăng cường tính đa dạng cho các vùng sinh thái khác nhau