Journal of Vietnamese Environment
Not a member yet
249 research outputs found
Sort by
Quản lý giám sát ô nhiễm môi trường không khí và nước bằng cách sử dụng công nghệ GIS: Quản lý giám sát ô nhiễm môi trường không khí và nước bằng cách sử dụng công nghệ GIS
The need for a green clean living environment is increasing today, with the boom of the socio-economic development, educational level. However, the environmental pollution becomes an alerted global issue due to the large amount of wastes discharged making this need to be not easily met at the moment. Greenhouse gas emission mainly from energy, transport and agricultural land use is causing climate change because of their long atmospheric lifetime and trapping the heat in the atmosphere. Harmful effects and damages caused by environment pollution and climate change are unpredictable. It was reported that every year millions of people die because of fine particles when exposing to air pollution and other millions die from water-born diseases. Management and monitoring of air and water pollution by using GIS technology is an effective method. The measured data can be obtained continuously, quickly and accurately at stations in any regions even with complex terrain. This helps reduce the required number of employees, manage automatically and continuously a large number of data.
Ngày naynhu cầuvềmột môi trường sống xanh, sạch đang gia tăng, với sự bùng nổ của phát triển kinh tế -xã hộivàtrình độ dân trí. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường đang trở thành một vấn đề cảnh báo toàn cầu do số lượng lớn các chất thảiđược xả ra môi trườnglàm cho nhu cầu này không dễ dàng được đáp ứng tại thời điểm này. Phát thải khí nhà kính chủ yếu là từ sử dụng năng lượng, giao thông vận tải và đấtnông nghiệp đang gây ra biến đổi khí hậu vì thờigian tồn tại của cúngdài và giữnhiệt trong khí quyển. Các ảnh hưởngxấuvà thiệt hại gây ra bởi ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu là không thể đoán trước. Thông tinbáo cáochỉ rarằng mỗi nămcóhàng triệu người chết vì hít các hạt bụi mịn khi tiếp xúc với ô nhiễm không khí;và hàng triệu người khác chết vì bệnh donước sinh ra. Quản lý và giám sát ô nhiễm không khí và nước bằng cách sử dụng công nghệ GIS là một phương pháphiệu quả. Các dữ liệu đo có thể được lấy liên tục, nhanh chóng và chính xác tại các trạm ở bất kểkhu vựcnào, ngay cả nơicó địa hình phức tạp. Điều này giúp làm giảm số lượng lao động cần thiết, quản lý tự động và liên tục một số lượng lớn dữ liệu.Ngày nay nhu cầu về một môi trường sống xanh, sạch đang gia tăng, với sự bùng nổ của phát triển kinh tế - xã hội và trình độ dân trí. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường đang trở thành một vấn đề cảnh báo toàn cầu do số lượng lớn các chất thải được xả ra môi trường làm cho nhu cầu này không dễ dàng được đáp ứng tại thời điểm này. Phát thải khí nhà kính chủ yếu là từ sử dụng năng lượng, giao thông vận tải và đất nông nghiệp đang gây ra biến đổi khí hậu vì thời gian tồn tại của cúng dài và giữ nhiệt trong khí quyển. Các ảnh hưởng xấu và thiệt hại gây ra bởi ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu là không thể đoán trước. Thông tin báo cáo chỉ ra rằng mỗi năm có hàng triệu người chết vì hít các hạt bụi mịn khi tiếp xúc với ô nhiễm không khí; và hàng triệu người khác chết vì bệnh do nước sinh ra. Quản lý và giám sát ô nhiễm không khí và nước bằng cách sử dụng công nghệ GIS là một phương pháp hiệu quả. Các dữ liệu đo có thể được lấy liên tục, nhanh chóng và chính xác tại các trạm ở bất kể khu vực nào, ngay cả nơi có địa hình phức tạp. Điều này giúp làm giảm số lượng lao động cần thiết, quản lý tự động và liên tục một số lượng lớn dữ liệu
Cách tiếp cận quản lý tổng hợp chất thải rắn nhằm ứng phó biến đổi khí hậu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long: Cách tiếp cận quản lý tổng hợp chất thải rắn nhằm ứng phó biến đổi khí hậu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
A fast increase of municipal solid waste (MSW) has become the most concerning environmental problem in Vietnam, especially in the Mekong Delta region, that is considered one of the most vulnerable deltas to climate change in the world. There are 12 provinces and one central city in MD that occupy about 12% of the whole area of the nation with 5% of MSW generated. However, there is no currently effective management system in place for treatment and management of MSW in the MD. Landfill is the sole treatment option for MSW right now. With a low-level plain, MD is facing the most serious environmental problem in the near future with an effect of climate change and sea level rising. The landfill should not be considered for long-term use in this area. Suitable treatment options for MSW should be applied together with other solutions for reuse, recycling and reduction of MSW as well as pollution prevention issue. An integrated MSW management approach in adaptation to climate change is considered necessary.
Sự tăng nhanh chất thải rắn đã trở thành vấn đề vấn đề môi trường được quan tâm nhất ở Việt Nam, đặc biệt là ở khu Đồng bằng Sông Cửu Long một trong những đồng bằng dễ bị tổn thương bởi sự biến đổi khí hậu nhất trên thế giới. Đồng bằng Sông Cửu Long có 12 tỉnh và một thành phố trực thuộc trung ương, chiếm 12% diện tích của cả nước với khoảng 5% lượng chất thải rắn phát sinh. Tuy nhiên,hiện nay chưa có một hệ thống quản lý hiệu quả cho chất thải rắn ở khu vực. Bãi rác là lựa chọn xử lý duy nhất ở thời điểm này. Với cao độ thấp, Đồng bằng Sông Cửu Long đang đối mặt với ảnh hưởng nghiêm trọng của các vấn đề môi trường trong tương lai gần bởi ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Về lâu dài bãi rác không nên sử dụng ở khu vực này. Các lựa chọn xử lý thích hợp cho chất thải rắn cần được áp dụng cùng với các giải pháp khác như tái sử dụng, tái chế và giảm thiểu chất thải rắn cũng như các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm. Cách tiếp cận quản lý tổng hợp chất thải rắn nhằm ứng phó sự biến đổi khí hậu cần đượcxem xét.Sự tăng nhanh chất thải rắn đã trở thành vấn đề vấn đề môi trường được quan tâm nhất ở Việt Nam, đặc biệt là ở khu Đồng bằng Sông Cửu Long một trong những đồng bằng dễ bị tổn thương bởi sự biến đổi khí hậu nhất trên thế giới. Đồng bằng Sông Cửu Long có 12 tỉnh và một thành phố trực thuộc trung ương, chiếm 12% diện tích của cả nước với khoảng 5% lượng chất thải rắn phát sinh. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một hệ thống quản lý hiệu quả cho chất thải rắn ở khu vực. Bãi rác là lựa chọn xử lý duy nhất ở thời điểm này. Với cao độ thấp, Đồng bằng Sông Cửu Long đang đối mặt với ảnh hưởng nghiêm trọng của các vấn đề môi trường trong tương lai gần bởi ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Về lâu dài bãi rác không nên sử dụng ở khu vực này. Các lựa chọn xử lý thích hợp cho chất thải rắn cần được áp dụng cùng với các giải pháp khác như tái sử dụng, tái chế và giảm thiểu chất thải rắn cũng như các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm. Cách tiếp cận quản lý tổng hợp chất thải rắn nhằm ứng phó sự biến đổi khí hậu cần được xem xét
New journal for the promotion of Vietnamese environmental research: Tạp chí mới khuyến khích nghiên cứu môi trường ở Việt Nam
oai:sdvojsjve.slub-dresden.de:article/8The Vietnamese science and high education system plays a major role in the country’s social and economical development. Due to a mixed influence of international education systems, the contribution of the Vietnamese research to the international scientific landscape is still modest. Over the past decades, the most scientific programmes focused mostly on rather theoretical sciences and less on applied sciences. The results are reflected by a rather low rate of international publications on experimental science. Together with the country’s efforts on the efficient use of natural resources, there is an urgent demand for strengthening the scientific activity on environmental sciences. The new Journal of Vietnamese Environment was created to respond to the increasing interest in environmental research. The journal was founded as part of an academic network initiated by the Dresden University of Technology in the framework of Vietnamese-German cooperation programs on training and education. With multidisciplinary fields of interest and several types of manuscripts, the journal has a predominant academic character, the submission of manuscripts is open to students, graduates, researchers and staff members of research and academic institutions, as well as to any individual willing to disseminate the knowledge about the management of Vietnamese environment.
Hệ thống khoa học và giáo dục đại học Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Trong xu hướng giao thoa mạnh mẽ giữa các hệ thống giáo dục quốc tế, đóng góp của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho cộng đồng khoa học quốc tế còn khiêm tốn. Trong những thập niên qua, hầu hết các hoạt động khoa học tập trung vào khoa học lý thuyết hơn là các lĩnh vực khoa học ứng dụng. Điều này đã được phản ánh qua tỷ lệ khá thấp các ấn phẩm quốc tế về khoa học thực nghiệm. Cùng với những nỗ lực của đất nước để sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, một nhu cầu cấp bách đặt ra là tăng cường các hoạt động nghiên cứu về khoa học môi trường. Tạp chí Môi trường Việt Nam ra đời nhằm hưởng ứng sự quan tâm ngày một gia tăng trong nghiên cứu môi trường. Tạp chí được thành lập như một phần của mạng lưới học thuật được đề xuất bởi Trường Đại học Tổng hợp Kỹ Thuật Dresden trong khuôn khổ chương trình hợp tác Việt Nam - CHLB Đức về đào tạo và giáo dục. Với mối quan tâm đa ngành và đa dạng trong ấn phẩm, tạp chí chủ yếu mang tính học thuật, cơ hội gửi đăng bài viết mở rộng cho cả sinh viên, kỹ sư / cử nhân, nghiên cứu viên và các thành viên của Viện nghiên cứu và giáo dục, các cá nhân có mong muốn phổ biến kiến thức về quản lý môi trường ở Việt Nam.Hệ thống khoa học và giáo dục đại học Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Trong xu hướng giao thoa mạnh mẽ giữa các hệ thống giáo dục quốc tế, đóng góp của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho cộng đồng khoa học quốc tế còn khiêm tốn. Trong những thập niên qua, hầu hết các hoạt động khoa học tập trung vào khoa học lý thuyết hơn là các lĩnh vực khoa học ứng dụng. Điều này đã được phản ánh qua tỷ lệ khá thấp các ấn phẩm quốc tế về khoa học thực nghiệm. Cùng với những nỗ lực của đất nước để sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, một nhu cầu cấp bách đặt ra là tăng cường các hoạt động nghiên cứu về khoa học môi trường. Tạp chí Môi trường Việt Nam ra đời nhằm hưởng ứng sự quan tâm ngày một gia tăng trong nghiên cứu môi trường. Tạp chí được thành lập như một phần của mạng lưới học thuật được đề xuất bởi Trường Đại học Tổng hợp Kỹ Thuật Dresden trong khuôn khổ chương trình hợp tác Việt Nam - CHLB Đức về đào tạo và giáo dục. Với mối quan tâm đa ngành và đa dạng trong ấn phẩm, tạp chí chủ yếu mang tính học thuật, cơ hội gửi đăng bài viết mở rộng cho cả sinh viên, kỹ sư / cử nhân, nghiên cứu viên và các thành viên của Viện nghiên cứu và giáo dục, các cá nhân có mong muốn phổ biến kiến thức về quản lý môi trường ở Việt Nam
Phát triển nguồn nhân lực thúc đẩy quản lý hiệu quả nước đô thị: Phát triển nguồn nhân lực thúc đẩy quản lý hiệu quả nước đô thị
The present paper summarizes the results of an application initiated within the framework of 35 years celebration of diplomatic relations between Germany and Vietnam. Within this context, the Technische Universität Dresden (TUD) and the Academy of Managers for Construction and Cities (AMC) jointly organized in 2010 a series of four thematic workshops. The one-day events have had similar structures and focused on main subjects of interest in the water sectors of both countries. In Vietnam, the workshops took place in Ha Noi, Hai Phong, Nha Trang and Vung Tau. Best practice examples about conceptualization, operation and maintenance of municipal water works provided an insight view into the challenges currently faced by the water service providers. TUD and AMC, together with their German and Vietnamese partners, addressed these issues by organizing the consecutive workshops under the umbrella of Vietnamese Water Supply and Sewerage Association (VWSA) and in coordination with the German Water Partnership (GWP).
Bài báo trình bày tóm tắt các kết quả của một đề xuấttrong khuôn khổ kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại giao giữa CHLB Đức và Việt Nam.Theo đó, Trường Đại học Tổng hợp Kỹ Thuật Dresden (TUD) và Học viện Quản lý Xây dựng và Đô thị (AMC) đã phối hợp tổ chức một chuỗi bốn hội thảo chuyên đề trong năm 2010. Mỗihội thảo thực hiện trong một ngày chương trình giống nhau và tập trung vào các chủ đề chính mà cả hai quốc gia đều quan tâm trong lĩnh vực nước. PhíaViệt Nam, các hội thảo được tổ chức ởcác thành phốHà Nội, Hải Phòng, Nha Trang và Vũng Tàu. Nhiều bài thuyết trìnhvề khái niệmhóa, vận hành và bảo dưỡng các công trình cấpnước đô thị đã thảo luận sâu về những thách thức mà các dịch vụ cấp nước đang gặp phải. TUD và AMC, kết hợp với các đối tác CHLB Đức và Việt Nam, đã ghi nhậncác vấn đề phát sinh thông quaviệc tổ chức nhiều hội thảo liên tục dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Cấp thoát nước Việt Nam (VWSA) và Hiệp hội nước CHLB Đức (GWP).Bài báo trình bày tóm tắt các kết quả của một đề xuất trong khuôn khổ kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại giao giữa CHLB Đức và Việt Nam. Theo đó, Trường Đại học Tổng hợp Kỹ Thuật Dresden (TUD) và Học viện Quản lý Xây dựng và Đô thị (AMC) đã phối hợp tổ chức một chuỗi bốn hội thảo chuyên đề trong năm 2010. Mỗi hội thảo thực hiện trong một ngày chương trình giống nhau và tập trung vào các chủ đề chính mà cả hai quốc gia đều quan tâm trong lĩnh vực nước. Phía Việt Nam, các hội thảo được tổ chức ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nha Trang và Vũng Tàu. Nhiều bài thuyết trình về khái niệm hóa, vận hành và bảo dưỡng các công trình cấp nước đô thị đã thảo luận sâu về những thách thức mà các dịch vụ cấp nước đang gặp phải. TUD và AMC, kết hợp với các đối tác CHLB Đức và Việt Nam, đã ghi nhận các vấn đề phát sinh thông qua việc tổ chức nhiều hội thảo liên tục dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Cấp thoát nước Việt Nam (VWSA) và Hiệp hội nước CHLB Đức (GWP)
Mạng lưới Đào tạo Tiến sỹ về Kỹ thuật và Quản lý ngành Nước: Mạng lưới Đào tạo Tiến sỹ về Kỹ thuật và Quản lý ngành Nước
The lack of highly qualified labour force in the Vietnamese water and environmental sector as well as the problems in the mutual admission of doctoral students between German and Vietnamese Universities have motivated the Institute of Environmental Engineering and Management (IEEM) at the University of Witten/Herdecke to initiate the Water Doctoral Network (WDN). This network shall not be limited to tuition and conferral of doctorates in water sciences, engineering and economics, but serve as nursery for new, innovative research potentials and projects within the international academic co-operation. Applied learning and research, rather than basic research and pure science, are the main focuses of this project.
Sự thiếu hụt lực lượng lao động chất lượng cao trong lĩnh vực nước và môi trường ở Việt Nam cũng như các vấn đề trong việc tiếp nhận nghiên cứu sinh tiến sỹ giữa các trường Đại học củaĐức và Việt Nam đã tạo động lực để Viện Kỹ thuật và Quản lý Môi trường (IEEM) của trường Đại học Witten/Herdecke đề xuấtmạng lưới đào tạo Tiến sỹ nghiên cứu về ngành nước (WDN). Mạng lưới này không chỉ giới hạn ở việc giảng dạy và cấp bằng tiến sĩ trong lĩnh khoa học, kinh tế và kỹ thuật về ngành nước, mà nó như là vườn ươm đối với các dự án và tiềm năng nghiên cứu sáng tạo mới trong hợp tác hàn lâm quốc tế. Học tập và nghiên cứu ứng dụng thực tế là các trọng tâm chính của dự án này chứ không đơn thuần là nghiên cứu cơ bản và khoa học thuần túy.Sự thiếu hụt lực lượng lao động chất lượng cao trong lĩnh vực nước và môi trường ở Việt Nam cũng như các vấn đề trong việc tiếp nhận nghiên cứu sinh tiến sỹ giữa các trường Đại học của Đức và Việt Nam đã tạo động lực để Viện Kỹ thuật và Quản lý Môi trường (IEEM) của trường Đại học Witten/Herdecke đề xuất mạng lưới đào tạo Tiến sỹ nghiên cứu về ngành nước (WDN). Mạng lưới này không chỉ giới hạn ở việc giảng dạy và cấp bằng tiến sĩ trong lĩnh khoa học, kinh tế và kỹ thuật về ngành nước, mà nó như là vườn ươm đối với các dự án và tiềm năng nghiên cứu sáng tạo mới trong hợp tác hàn lâm quốc tế. Học tập và nghiên cứu ứng dụng thực tế là các trọng tâm chính của dự án này chứ không đơn thuần là nghiên cứu cơ bản và khoa học thuần túy
Quản lý chất thải rắn ở Đồng bằng Sông Cửu Long: Quản lý chất thải rắn ở Đồng bằng Sông Cửu Long
Municipal solid waste (MSW) in Vietnam has been increasing quickly and became one of the most considered environmental problems in Mekong Delta (MD) region covering 13 provinces and municipalities in the south of Vietnam. With a considerably large amount of MSW, the region produces about 5% of the total amount of MSW of the country. The collection rate of solid waste is about quite high (65 - 72%) in the cities and rather low (about 40 - 55%) in the rural areas, with a high content in organic matter (about 60 - 85%). The climate of MD can be characterized as tropical and monsoonal with a high rate of humidity and a strong impact of flooding. Like other regions too, the MSW collection and treatment system is still underdeveloped and rudimentary, with disposal sites being the sole dumping method of the unsorted MSW remaining untreated by any mechanical and biological pre-treatment steps. Within this paper, the current treatment, management and operation of MSW systems are introduced, as well as the identification of advantages and dis-advantages, environmental impacts, potential risks of the MSW system within the impact of global climate change. The situation of MSW treatment and management is correlated with the climate change impact and the integrated solid waste management is introduced as a new approach for adapting the environmental protection awareness by considering the climate change for the long-term sustainable development orientation.
Sự gia tăng chất thải rắn ở các đô thị Việt Nam ngày càng nhanh và chất thải rắn đang là một trong những vấn đề môi trường được quan tâm hàng đầu. Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nơi có đến 13 tỉnh và thành phố nằm ở phía Nam Việt Nam. Với lượng chất thải không nhỏ, chiếm khoảng 5 % tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt của quốc gia. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn thấp, chiếm khoảng 65 - 72 % ở thành thị, tỷ lệ này ở nông thôn thấp 40 - 55%, chất thải có hàm lượng hữu cơ cao chiếm khoảng 60 - 85%. Khí hậu nhiệt đới gió mùa với độ ẩm không khí cao và chịu ảnh hưởng lớn của lũ lụt hàng năm. Cũng như các khu vực khác, hệ thống thu gom và xử lý rác thải ở khu vực ĐBSCL còn rất thô sơ và lạc hậu, bãi rác là nơi duy nhất tiếp nhận trực tiếp hổn hợp rác thải không phân loại và qua bất kỳ công đoạn tiền xử lý nào. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi giới thiệu hoạt động vận hành hệ thống quản lý và xử lý rác đô thị trong khu vực đồng thời phân tích các thuận lợi và bất lợi, cũng như các tác động môi trường, những rủi ro tiềm ẩn trong điều kiện ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu - khu vực ĐBSCL là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Tình hình quản lý và xử lý rác được cân nhắc trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời quản lý tổng hợp rác thải cũng được đềxuất như một các tiếp cận mới nhằm đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong điều kiện biến đổi khí hậu theo định hướng phát triển bền vững lâu dài.Sự gia tăng chất thải rắn ở các đô thị Việt Nam ngày càng nhanh và chất thải rắn đang là một trong những vấn đề môi trường được quan tâm hàng đầu. Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nơi có đến 13 tỉnh và thành phố nằm ở phía Nam Việt Nam. Với lượng chất thải không nhỏ, chiếm khoảng 5 % tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt của quốc gia. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn thấp, chiếm khoảng 65 - 72 % ở thành thị, tỷ lệ này ở nông thôn thấp 40 - 55%, chất thải có hàm lượng hữu cơ cao chiếm khoảng 60 - 85%. Khí hậu nhiệt đới gió mùa với độ ẩm không khí cao và chịu ảnh hưởng lớn của lũ lụt hàng năm. Cũng như các khu vực khác, hệ thống thu gom và xử lý rác thải ở khu vực ĐBSCL còn rất thô sơ và lạc hậu, bãi rác là nơi duy nhất tiếp nhận trực tiếp hổn hợp rác thải không phân loại và qua bất kỳ công đoạn tiền xử lý nào. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi giới thiệu hoạt động vận hành hệ thống quản lý và xử lý rác đô thị trong khu vực đồng thời phân tích các thuận lợi và bất lợi, cũng như các tác động môi trường, những rủi ro tiềm ẩn trong điều kiện ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu - khu vực ĐBSCL là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Tình hình quản lý và xử lý rác được cân nhắc trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời quản lý tổng hợp rác thải cũng được đề xuất như một các tiếp cận mới nhằm đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong điều kiện biến đổi khí hậu theo định hướng phát triển bền vững lâu dài
Khảo sát đất ô nhiễm kim loại nặng ở tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Hưng Yên thuộc miền Bắc Việt Nam: Khảo sát đất ônhiễm kim loại nặng ở tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Hưng Yên thuộcmiền Bắc Việt Nam
In Vietnam, soil contamination with lead and cadmium at very high level was investigated and discovered in the surrounding areas of zinc-lead mining and processing factory in Tan Long (Dong Hy district, Thai Nguyen province) and around the lead-recycling smelter in Chi Dao (Van Lam district, Hung Yen province). The survey on soil contaminated by arsenic due to the tin mining and sifting activities in Ha Thuong (Dai Tu district, Thai Nguyen province) was also carried out. In Tan Long, the concentrations of lead and cadmium in the old solid waste dump from zinc-lead factory varied from 1,100 to 13,000 mg·kg-1, and from 11.34 to 61.04 mg·kg-1, respectively. Soil Pollution Indexes (SPI) of lead and cadmium were highest in the old solid waste dump area, followed by the ones in the rice paddy soils. In Chi Dao, the soils of many sites were polluted with lead and cadmium such as in the gardens of lead-recycling households where the concentrations of lead and cadmium were 7,000 - 15,000 mg·kg-1 and 1.8 - 3.6 mg·kg-1. In rice paddies, the soils were also polluted by lead. SPI of lead in paddy soil areas within 300 m radius from the lead smelter were from 3.6 to 100 fold higher than the safe limit. The sediment from the ditch near the lead smelters contained extremely high levels of lead (7,000 - 110,000 mg·kg-1) and cadmium (3.8 - 17.7 mg·kg-1). The tin mining and sifting activities in Ha Thuong was the cause for the arsenic contamination of the soil in this area. The arsenic contents in soils at all locations investigated were higher than 320 mg·kg-1 (dry weight) and up to 3,809 mg·kg-1.
Tại Việt Nam, đất bị ô nhiễm bởi chì và ca-đi-mi với hàm lượng cao đã được điều tra phát hiện ở các khu vực phụ cận của nhà máy khai thác và chế biến kẽm/chì thuộc địa phận xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và các khu vực phụ cận củalòtái chế chì thuộc địa phận xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.Sự khảo sát đất bị ô nhiễm bởi a-sen do các hoạt động khai thác và tuyểnthiếc ở xã Hà Thượng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cũng đã được tiến hành. Tại xã Tân Long, nồng độ chì và ca-đi-mitrong bãi chất thải rắncũtừ nhà máy sản xuất kẽm chì là 1.100 - 1.300 mg.kg-1 và từ 11,34 đến 61,04 mg.kg-1, tương ứng. Chỉ số ô nhiễm đất (SPI) của chìvà ca-đi-micao nhất trongkhu vực đổ chất thải rắn cũ, tiếp theo sau là ở các ruộng lúa. Tạixã ChỉĐạo, đất ở nhiều địa điểmđã bị ô nhiễm chìvà ca-đi-mi chẳng hạn như trong khu vườn của các hộ gia đình tái chế chì, nồng độ chìvà ca-đi-milà 7.000 - 15.000 mg.kg-1 và 1,8 - 3,6 mg.kg-1. Trong cánh đồng lúa, đất cũng bị ô nhiễm bởi chì. Chỉ số ô nhiễm đất của chì (SPI-Pb) trong cánh đồng lúa trong vòng bán kính 300 m từ lò tái chế chì cao hơn giới hạn của đất an toàn từ 3,6 đến 100 lần. Trầm tíchthutừ kênhgần lòtái chếchì chứa hàm lượngchìrấtcao (7000 - 110.000 mg.kg-1) và ca-đi-mi (3,8 -17,7 mg.kg-1). Việc khai thác và tuyển thiếc tại xã Hà Thượng đã gây ra ô nhiễm a-sen trong đất tạikhu vực này. Hàm lượng a-sentrong đất tại tất cả các địa điểm nghiên cứu cao hơn 320 mg.kg-1 (trọng lượng khô), đặc biệt là lên đến 3809 mg.kg-1.Tại Việt Nam, đất bị ô nhiễm bởi chì và ca-đi-mi với hàm lượng cao đã được điều tra phát hiện ở các khu vực phụ cận của nhà máy khai thác và chế biến kẽm/chì thuộc địa phận xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và các khu vực phụ cận của lò tái chế chì thuộc địa phận xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Sự khảo sát đất bị ô nhiễm bởi a-sen do các hoạt động khai thác và tuyển thiếc ở xã Hà Thượng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cũng đã được tiến hành. Tại xã Tân Long, nồng độ chì và ca-đi-mi trong bãi chất thải rắn cũ từ nhà máy sản xuất kẽm chì là 1.100 - 1.300 mg.kg-1 và từ 11,34 đến 61,04 mg.kg-1, tương ứng. Chỉ số ô nhiễm đất (SPI) của chì và ca-đi-mi cao nhất trong khu vực đổ chất thải rắn cũ, tiếp theo sau là ở các ruộng lúa. Tại xã Chỉ Đạo, đất ở nhiều địa điểm đã bị ô nhiễm chì và ca-đi-mi chẳng hạn như trong khu vườn của các hộ gia đình tái chế chì, nồng độ chì và ca-đi-mi là 7.000 - 15.000 mg.kg-1 và 1,8 - 3,6 mg.kg-1. Trong cánh đồng lúa, đất cũng bị ô nhiễm bởi chì. Chỉ số ô nhiễm đất của chì (SPI-Pb) trong cánh đồng lúa trong vòng bán kính 300 m từ lò tái chế chì cao hơn giới hạn của đất an toàn từ 3,6 đến 100 lần. Trầm tích thu từ kênh gần lò tái chế chì chứa hàm lượng chì rất cao (.7000 - 110.000 mg.kg-1) và ca-đi-mi (3,8 - 17,7 mg.kg-1). Việc khai thác và tuyển thiếc tại xã Hà Thượng đã gây ra ô nhiễm a-sen trong đất tại khu vực này. Hàm lượng a-sen trong đất tại tất cả các địa điểm nghiên cứu cao hơn 320 mg.kg-1 (trọng lượng khô), đặc biệt là lên đến 3809 mg.kg-1
Hầm ủ khí sinh học quy mô nhỏ ở Việt Nam - quá trình phát triển và các thách thức: Hầmủkhí sinh học quy mô nhỏ ở Việt Nam-quá trình phát triển và các thách thức
Small-scale anaerobic digesters, known as biogas plants, were applied as an optimal livestock waste treatment as well as biogas supply for cooking and lighting demand for small-scale farmers in Vietnam. Although the biogas technology was introduced for nearly 30 years, the number of the constructed biogas plants is still limited. The current development of biogas plants is far below the real demand on livestock waste treatment that has increased significantly. This paper gives a comprehensive overview on the biogas plant development in Vietnam and attempts to address the challenges and discuss appropriate solutions for the further biogas development.
Mô hìnhlên men yếm khíquy mô nhỏ (được biếtvới tên hầm ủ khí sinh học) đã được ứng dụng hiệu quả trongxử lý chất thải chăn nuôicũng nhưcung cấpnguồn nhiên liệu phục vụ nhu cầu nấu ănvàthắp sáng cho các hộ chăn nuôi nhỏ ở Việt Nam. Mặc dù đã hiện diện gần 30 năm, nhưng số lượng hầm ủ khí sinhhọc vẫn còn hạn chế. Sự gia tăng số lượnghầm ủ khí sinh học chưa theo kịp với nhu cầu về xử lý chất thải chăn nuôi đang ngày càng gia tăng. Bài báo trình bày các chặng đường phát triển của hầm ủ khí sinh học tại Việt Nam, ghi nhận các thách thức trong việcnhân rộng hầm ủ khí sinh họctrong thực tế và thảo luận một sốgiải pháp để phát triển công nghệ khí sinh học.Mô hình lên men yếm khí quy mô nhỏ (được biết với tên hầm ủ khí sinh học) đã được ứng dụng hiệu quả trong xử lý chất thải chăn nuôi cũng như cung cấp nguồn nhiên liệu phục vụ nhu cầu nấu ăn và thắp sáng cho các hộ chăn nuôi nhỏ ở Việt Nam. Mặc dù đã hiện diện gần 30 năm, nhưng số lượng hầm ủ khí sinh học vẫn còn hạn chế. Sự gia tăng số lượng hầm ủ khí sinh học chưa theo kịp với nhu cầu về xử lý chất thải chăn nuôi đang ngày càng gia tăng. Bài báo trình bày các chặng đường phát triển của hầm ủ khí sinh học tại Việt Nam, ghi nhận các thách thức trong việc nhân rộng hầm ủ khí sinh học trong thực tế và thảo luận một số giải pháp để phát triển công nghệ khí sinh học
Ứng dụng công nghệ A/O kết hợp màng vi lọc để xử lý nước thải sinh hoạt ở Hà Nội: Ứng dụng công nghệ A/O kết hợp màng vi lọc để xử lý nước thải sinh hoạt ở Hà Nội
The study aims to investigate an appropriate wastewater treatment process to treat domestic wastewater in Hanoi City which contain low-strength for COD (120-200 mg/L) but high in nitrogen content (10-40 mg/L). A lab scale anoxic-oxic system with a hollow fiber-Membrane Separation Bioreactor was operated at a flow rate of 5-10 L/h over a period of 150 days. The reactor was operated at different sludge recirculation rates. The MBR maintained relatively constant transmembrane pressure. During 150 days of reactor operation, treated water quality have COD of around 20 mg/L, NH4-N of less than 1 mg/L, NO3-N of less than 5 mg/L. The system shows good and stable efficiency for organic matter and nitrogen removal without adding an external carbon source and coagulants. The results based on the study indicated that the proposed process configuration has potential to treat the low-strength wastewater in Hanoi.
Mục tiêu của nghiên cứu là đềxuất được một công nghệhiệu quảvà phù hợp đểxửlý nước thải sinh họat ởcác đô thịcủaViệt nam, là loại nước thải được thu gom từhệthốngthoát nước chung có nồng độchất hữu cơ thấp (COD 120-200 mg/l) nhưng hàm lượng chất dinh dưỡng như Nitơ, Phốt pho khá cao (T-N:10-40 mg/L). Chúng tôi đã nghiên cứu và vận hành chạy thửmô hình xửlý sinh học yếm khí-kỵkhí (AO) kết hợp với màng vi lọc ởquy mô mô hình phòng thí nghiệm (công suất 5-10 L/h) ởcác chếđộcông suất bùn tuần hoàn khác nhau. Kết quảxửlý trong thời gian 5tháng vận hành mô hình cho thấy chất lượng nước thải sau xửlý có hàm lượng COD nhỏhơn 20 mg/L, NH4-N nhỏhơn 1 mg/L, NO3-N nhỏhơn 5 mg/L. Hiệu suất xửlý chất hữu cơ và chất dinh dưỡng rất ổn định và hệthống không phải sửdụng các nguồn bổsung chất hữu cơ hay các hóa chất trợlắng như các công nghệđang áp dụng. Kết quảcho thấy công nghệAO kết hợp màng vi lọc có khảnăng áp dụng thực tế,phù hợp với những nơi có quỹđất nhỏ, chất lượng nước sau xửlý rất cao có thểphục vụcho mục đích tái sửdụng.Mục tiêu của nghiên cứu là đề xuất được một công nghệ hiệu quả và phù hợp để xử lý nước thải sinh họat ở các đô thị của Việt nam, là loại nước thải được thu gom từ hệ thống thoát nước chung có nồng độ chất hữu cơ thấp (COD 120-200 mg/l) nhưng hàm lượng chất dinh dưỡng như Nitơ, Phốt pho khá cao (T-N: 10-40 mg/L). Chúng tôi đã nghiên cứu và vận hành chạy thử mô hình xử lý sinh học yếm khí - kỵ khí (AO) kết hợp với màng vi lọc ở quy mô mô hình phòng thí nghiệm (công suất 5-10 L/h) ở các chế độ công suất bùn tuần hoàn khác nhau. Kết quả xử lý trong thời gian 5 tháng vận hành mô hình cho thấy chất lượng nước thải sau xử lý có hàm lượng COD nhỏ hơn 20 mg/L, NH4-N nhỏ hơn 1 mg/L, NO3-N nhỏ hơn 5 mg/L. Hiệu suất xử lý chất hữu cơ và chất dinh dưỡng rất ổn định và hệ thống không phải sử dụng các nguồn bổ sung chất hữu cơ hay các hóa chất trợ lắng như các công nghệ đang áp dụng. Kết quả cho thấy công nghệ AO kết hợp màng vi lọc có khả năng áp dụng thực tế, phù hợp với những nơi có quỹ đất nhỏ, chất lượng nước sau xử lý rất cao có thể phục vụ cho mục đích tái sử dụng