414 research outputs found

    Siêu đồ thị kết nối đối tượng – một cách tiếp cận trong tối ưu hoá câu truy vấn đối tượng lồng nhau

    Get PDF
    Trong cơ sở dữ liệu hướng đối tượng, truy vấn đối tượng lồng được sử dụng khá thường xuyên. Các cấu trúc lồng được biểu diễn ở biểu thức điều kiện của truy vấn dưới hai dạng: các truy vấn con lồng hoặc biểu thức đường dẫn có chứa các kết nối ẩn là các tân từ lồng nhau trong mệnh đề where. Đối với truy vấn lồng, khi phân tích ước lượng chi phí của biểu thức đại số lồng nhau, thì việc định giá sẽ cho kết quả chi phí không hiệu quả. Vì vậy, phương pháp của chúng tôi đưa ra trong bài báo này là làm phẳng các truy vấn con trong các truy vấn có cấu trúc lồng nhau sử dụng siêu đồ thị kết nối đối tượng, phương pháp này sẽ làm tăng tính hiệu quả cho việc thực thi xử lý truy vấn trên cơ sở dữ liệu hướng đối tượng

    THUẬT TOÁN PHÂN MẢNH DỌC VÀ CẤP PHÁT TRONG CƠ SỞ DỮ LIỆU HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG PHÂN TÁN

    Get PDF
    Các hệ thống thông tin ngày nay thường được yêu cầu xây dựng dựa trên những kiến trúc hướng đối tượng và phân tán trên mạng, bao gồm từ nhiều cơ sở tính toán đa dạng, không thuần nhất. Trong các môi trường như thế, hệ thống có sở dữ liệu hướng đối tượng phân tán cung cấp những cơ chế rất tin cậy và hiệu quả để tổ chức lưu trữ, xử lý và truy vấn khối lượng rất lớn các đối tượng khác nhau. Với các đặc tính cơ bản của hướng đối tượng như đóng gói, kế thừa, phân cấp lớp, bài toán thiết kế trong cơ sở dữ liệu hướng đối tượng phân tán phát sinh thêm nhiều vấn đề phức tạp so với bài toán thiết kế trong cơ sở dữ liệu quan hệ. Thiết kế trong cơ sở dữ liệu hướng đối tượng phân tán được chia thành hai giai đoạn: Phân mảnh lớp đối tượng và cấp phát lớp. Mục tiêu của phân mảnh và cấp phát là nâng cao hiệu năng xử lý và giảm việc truyền dữ liệu. Thông thường hai giai đoạn này là tách biệt, phân mảnh xong mới thực hiện cấp phát. Bài báo này đề cập tới một thuật toán trong đó việc phân mảnh và cấp phát trong cơ sở dữ liệu hướng đối tượng phân tán được thực hiện đồng thời, đối với trường hợp các thuộc tính và phương thức đều thuộc loại đơn giản

    Ảnh hưởng của thức ăn và độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ốc nhảy Strombus canarium (Linnaeus, 1758) tại Khánh Hòa

    Get PDF
    Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của các loại thức ăn (tảo tươi, thức ăn tổng hợp và tảo khô dạng phiến Spirulina flakes kết hợp thức ăn tổng hợp) và độ mặn (25‰, 30‰, 35‰) lên sinh trưởng, tỷ lệ sống của ấu trùng ốc nhảy giai đoạn trôi nổi (ấu trùng veliger) được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2017 tại Nha Trang, Khánh Hòa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau 15 ngày thí nghiệm, nghiệm thức sử dụng thức ăn là tảo khô dạng phiến Spirulina flakes kết hợp thức ăn tổng hợp cho tốc độ sinh trưởng của ấu trùng tốt nhất (46,3 ± 4,41 µm/ngày) và có sự sai khác có ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức còn lại. Tỷ lệ sống của ấu trùng ở nghiệm thức cho ăn bằng tảo tươi là 76,2 ± 2,3% và cao hơn có ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức còn lại. Ở nghiệm thức độ mặn 30‰, ấu trùng có tốc độ sinh trưởng (39,1 ± 4,74 µm/ngày) và tỷ lệ sống (70,4 ± 2,52%) cao nhất và có sự sai khác có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức độ mặn 25‰

    翻訳における質の批評―夏目漱石『心』のベトナム語版を例として―

    Get PDF
    Tóm tắt Hoạt động Dịch thuật đã được hình thành và phát triển từ xa xưa. Trong xã hội hiện đại, nhu cầu về giao tiếp đa ngôn ngữ, đa văn hóa ngày càng được coi trọng. Ngày nay, ai cũng có thể dễ dàng có trong tay một bản dịch tiếng nước ngoài. Ngày nay, ai cũng có thể dễ dàng tham gia một khóa học về ngôn ngữ, về dịch thuật. Ngày nay, ai cũng có thể dễ dàng tham gia vào công tác dịch thuật. Theo đó, có vô vàn những văn bản đã được dịch, với đa dạng sắc thái và chất lượng khác nhau. Đánh giá chất lượng dịch thuật không thể thiếu trong các hoạt động nghiên cứu về dịch thuật. Tuy nhiên, do thiếu khung phương pháp luận thích hợp, nên đánh giá bản dịch hiện nay chủ yếu tập trung vào những việc như: sửa chữa từ vựng và cú pháp hoặc phân tích lỗi chứ không phải là việc đánh giá các công việc dịch thuật nói chung. Như vậy, vấn đề đặt ra cho những người đánh giá dịch thuật, là một khung phương pháp luận phù hợp. Và, mấu chốt cho khung phương pháp luận đó chính là “tính khách quan” trong đánh giá. Tuy đã có nhiều mô hình lý thuyết đã được đưa ra, nhưng giới dịch thuật vẫn trăn trở với những câu hỏi như: làm thế nào để hạn chế yếu tố chủ quan của người đánh giá bản dịch, những tiêu chuẩn đánh giá như thế nào sẽ có tính đúng với nhiều người đánh giá, cho dù họ nhìn nhận vấn đề từ nhiều chiều hướng khác nhau… Tán thành và kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước như quan điểm về “dynamic equivalence” của Nida, 7 phương thức dịch của Vinay và Darbelnet, mô hình đánh giá chất lượng dịch của House, vv… Trong bài viết này, tác giả khảo sát một số vấn đề liên quan đến mô hình dịch và đánh giá chất lượng dịch thuật. Từ kết quả phân tích, tác giả có đề xuất một số đánh giá khách quan cho một tài liệu dịch. Trong chương cuối, tác giả sử dụng chính những tiêu chuẩn đánh giá đã đề xuất tại chương 3, để phân tích và thực chứng cho mô hình này trong một điều tra thực tế. Hy vọng rằng, thông qua một số tiêu chí đánh giá bản dịch được cung cấp, cũng như việc phân tích thực chứng các vấn đề trong một phần bản dịch cuốn tiểu thuyết “Kokoro” của Natsume Sōseki, sẽ hữu ích cho việc phát triển các khung lý thuyết cho lĩnh vực dịch thuật, và trở thành lý thuyết cơ sở cho các dịch giả trong việc tránh những sai lầm không cần thiết.Translation activity began in ancient times. In modern society, the need for multi-language communication is great. These days anyone can easily obtain a translation from a foreign language. These days anyone can easily take a language course or a translation course. This means that almost anyone can participate in the work of translation. Accordingly, there are many texts that have been translated with diverse shades of meaning and different degrees of quality. Assessment of translation quality based on research into translating methods is indispensable. However, due to the lack of an appropriate methodological framework, current translation assessment mostly focuses on things like fixing vocabulary and syntax or analyzing errors, rather than evaluating the translation work in general. Thus, the problem for the evaluation of a translation is to identify an appropriate methodological framework. And the key to the methodological framework is “objectivity” in the assessment. Although many theoretical models have been put forward, translation assessment is still mostly concerned with matters such as how to reduce the subjective factors of translation and the establishment of criteria by which the assessment could look at problems correctly from many different directions. Scholars today can build on the research achievements of predecessors such as the view of “dynamic equivalence” of Eugene Nida, the seven translation methods of Vinay and Darbelnet, and the quality assessment model of Juliane House. In this essay, the authors examine some of the issues related to translation models and translation quality assessment. They propose some objective measures for assessing a translated document. In the final section of this essay, they apply the assessment criteria they proposed earlier (in the third section) to analyze and demonstrate how their model works in an actual investigation. The authors present an analysis of problems with the translation of Natsume Sōseki’s novel Kokoro into Vietnamese, in the hope the translation assessment criteria that they offer will be seen as useful in developing a theoretical framework for the translation field and will become accepted as the basic theory for translators, helping them to avoid unnecessary mistakes

    ĐẶC TRƯNG QUANG ĐIỆN TỬ CỦA PIN MẶT TRỜI TRÊN CƠ SỞ MÀNG MỎNG Ag/SnS CHẾ TẠO BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÚN XẠ SÓNG VÔ TUYẾN TẦN SỐ CAO

    Get PDF
    We report the characteristics of solar cells manufactured with silver deposited on SnS thin film (Ag/SnS) synthesized with the radio frequency sputtering method. The Ag/SnS film significantly improves the reliable photocurrent density (JSC), photoconversion efficiency, long-term stability due to high transfer carriers of Ag/SnS, suppressed leakage current, and low surface resistance based on sufficient ohmic contact. The Ag/SnS film-based solar cell obtains a power conversion efficiency (h) of 4.83% with a short circuit current density (JSC) of 15.1 mA/cm2 and open-circuit voltage (VOC) of 0.5 V at room temperature. Based on these findings, we propose a potential application of noble metals on the SnS film for enhancing the efficiency and long-term stability of SnS film–based solar cells.Chúng tôi trình bày các đặc trưng về pin năng lượng mặt trời chế tạo với màng mỏng SnS/Ag/SnS được tổng hợp bằng phương pháp phún xạ sóng vô tuyến tần số cao. Cấu trúc này có khả năng tăng cường hiệu suất chuyển đổi quang và độ ổn định cao của pin năng lượng mặt trời nhờ khả năng truyền hạt tải tốt dựa vào sự đồng nhất và liên tục của màng Ag/SnS, giảm dòng điện thất thoát và điện trở tiếp xúc nhỏ dựa vào tiếp xúc ohmic tốt giữa điện cực và lớp TiO2. Linh kiện chế tạo dựa trên cấu trúc SnS/Ag/SnS cung cấp hiệu suất chuyển đổi quang học (h) là 4,83% (mật mật độ dòng quang điện ngắn mạch (JSC) 15,1 mA/cm2, hiệu điện thế hở mạch (VOC) 0,5 V) tại nhiệt độ phòng. Từ kết quả nghiên cứu này, chúng tôi hướng đến khả năng kết hợp giữa một số kim loại quý với vật liệu SnS nhằm nâng cao hiệu suất chuyển đổi quang điện và độ ổn định của pin năng lượng mặt trời SnS

    Phát triển phương pháp ELISA khảo sát nhiễm Streptococcus suis sử dụng kháng nguyên protein bề mặt 1 (Surface Antigen One)

    Get PDF
    Streptococcus suis (S. suis) is one of the most important pathogens to cause acute bacterial meningitis in Viet Nam and other Asia countries including Thailand and Hongkong. We investigated the potential of using ELISA with the SAO protein as antigen to detect for S. suis specific sero positive. An SAO specific antibody collected from hyperimmunised rabbits was employed to develop the prototype ELISA. S. suis and other bacterial pathogens were used to validate the sensitivity and specificity of this method. This prototype ELISA was validated using serum samples collected from meningitis patients to evaluate its application in sero surveillance. The prototype ELISA protocol included a 0.1mg/well concentration of the cloned and purified SAO-M antigen; the primary antibody, anti SAO-M protein, and secondary antibody were used at the dilution of 1:500 and 1:10000, respectively.  Rabbit antisera contained specific SAO-M antibody with 100% specificity and titer of 1:16000.  Validating the prototype ELISA using serum samples collected from patients infected with S. suis and other common pathogens for bacterial meningitis in Vietnam showed the specificity of 95% and sensitivity of 90%. Our current results confirmed the initial success in developing the prototype ELISA in diagnosis for S. suis infections and the potential for its future application.Streptococcus suis (S. suis) là một trong những tác nhân gây bệnh quan trọng nhất trong viêm màng não mủ cấp trên người lớn tại Việt Nam và một số nước châu Á như Thái Lan, Hong Kong. Chúng tôi khảo sát khả năng phát triển phương pháp ELISA chẩn đoán đặc hiệu sử dụng protein bề mặt của S. suis SAO làm kháng nguyên. Kháng thể kháng protein SAO được sản xuất trên mô hình thỏ nhằm mục đích sử dụng trong xây dựng qui trình ELISA kiểu mẫu. S. suis và các tác nhân vi trùng khác được dùng trong phản ứng ELISA để xác định độ đặc hiệu và độ nhạy của qui trình. Nhằm đánh giá khả năng ứng dụng trong khảo sát huyết thanh học trên người, qui trình ELISA được đánh giá hiệu quả với mẫu huyết thanh của bệnh nhân. Qui trình ELISA kiểu mẫu được xác định với nồng độ kháng nguyên SAO-M phủ giếng tối ưu là 0.1mg/giếng, nồng độ pha loãng của huyết thanh thỏ chứa kháng thể kháng SAO-M  và của kháng thể thứ cấp lần lượt là 1:500 và 1:10000. Huyết thanh thỏ chứa kháng thể kháng SAO-M có độ đặc hiệu 100%với hiệu giá kháng thể là 1:16000. Qui trình ELISA kiểu mẫu có độ đặc hiệu 95%  và độ nhạy 90% khi thử nghiệm trên huyết thanh người được xác định nhiễm với S. suis hay với các tác nhân phổ biến khác gây bệnh viêm màng não mủ tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu khẳng định thành công bước đầu trong việc xây dựng qui trình ELISA chẩn đoán nhiễm S. suis, và cho thấy tiềm năng ứng dụng trong tương lai

    CÁC HỢP CHẤT PHENYLPROPANOID GLUCOSIDE TỪ CÂY BẠCH ĐỒNG NỮ CLERODENDRUM PHILIPINUM SCHAUER

    Get PDF
    SUMMARYFrom the methanolic extract of the roots of Clerodendrum philipinum four phenylpropanoid glucosides were isolated by various chromatography methods. Their structures were identified as clerodenoside A (1), martynoside (2), acteoside (3), and isoacteoside (4) by means of spectroscopic methods including 1D-, 2D-NMR, and MS in comparison with previous literature data. Compounds 2-4 were found for the first time from the Crolerodendrum species.Keywords: Clerodendrum philipinum, phenylpropanoid glucosideSUMMARYFrom the methanolic extract of the roots of Clerodendrum philipinum four phenylpropanoid glucosides were isolated by various chromatography methods. Their structures were identified as clerodenoside A (1), martynoside (2), acteoside (3), and isoacteoside (4) by means of spectroscopic methods including 1D-, 2D-NMR, and MS in comparison with previous literature data. Compounds 2-4 were found for the first time from the Crolerodendrum species.Keywords: Clerodendrum philipinum, phenylpropanoid glucosid
    corecore