9 research outputs found

    ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHẾ ĐỘ BỔ SUNG THỨC ĂN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN VỀ KHỐI LƯỢNG, KÍCH THƯỚC VÀ DUNG TÍCH BỘ MÁY TIÊU HOÁ CỦA BÊ BÚ SỮA TỪ SƠ SINH ĐẾN 12 TUẦN TUỔI

    No full text
    Nghiên cứu được tiến hành tại Quảng Trị từ 4/2008 đến 4/2009 nhằm xem xét ảnh hưởng của các chế độ bổ sung thức ăn khác nhau đến sự phát triển của bộ máy tiêu hóa về mặt hình thái và dung tích. Thí nghiệm gồm 25 bê nội, chia làm 4 lô, tương ứng với 4 chế độ nuôi: 1) sữa mẹ, cỏ và thức ăn tinh; 2) sữa mẹ và thức ăn tinh; 3) sữa mẹ và cỏ; và 4) chỉ cho bú sữa (đối chứng). Kết quả cho thấy bổ sung thức ăn cho bê trong thời kỳ bú sữa đã thúc đẩy cơ quan tiêu hóa phát triển cả về khối lượng, cả về dung tich. Trong 3 chế độ bổ sung, bổ sung thức ăn tinh một mình đã thúc đẩy tốt nhất sự phát triển của khối lượng và dung tích ruột. Sau 12 tuần tuổi, khối lượng và dung tích ruột bê được ăn thêm thức ăn tinh (lô B) đã tăng 505 và 183% so với giá trị tương ứng của bê lúc sơ sinh. Ngược lại, khi bổ sung mình cỏ, dạ cỏ nói riêng và 3 dạ trước nói chung có tốc độ phát triển khối lượng và dung tích mạnh nhất. Lúc 4 tuần tuổi, dung tích dạ cỏ của bê bổ sung cỏ là  800 ml, cao hơn 18 % so với đối chứng (675 ml); tương tự lúc 12 tuần tuổi là 3.548 ml so với 2.787 ml, tăng 27%. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng bổ sung sớm thức ăn cho bê ngay khi sơ sinh có tác dụng thúc đẩy hệ thống tiêu hóa bê phát triển nhanh hơn. Hơn nữa, chế độ bổ sung thức ăn khác nhau đã gây những hiệu ứng khác nhau đến sự phát triển của các bộ phận khác nhau của hệ thống tiêu hóa

    Ảnh hưởng của khẩu phần cỏ trồng ăn tự do (ad libitum) và thức ăn tinh đến tăng trọng của bò trong giai đoạn vỗ béo và hiệu quả kinh tế của quy trình nuôi

    No full text
    Một thí nghiêm theo mô hình CRD với 21 bò đực, 25±3,1 tháng tuổi, được phân thành 3 lô: TN1 (7 bò lai, 258.4±53,8 kg) được ăn tự do cỏ trồng và thức ăn tinh với mức 1,5% khối lượng cơ thể; TN2 (7 bò nôi 217.3±37,7 kg), được ăn như TN1; và ĐC (7 bò lai 271.7±37,2 kg) được ăn tự do cỏ trồng và thức ăn tinh với mức 0,34% khối lượng cơ thể. Trong 90 ngày thí nghiệm, bò ở lô TN1, TN2 và ĐC có lượng tăng trọng trung bình tương ứng là 990, 766 và 476 g/ngày. Tăng trọng của bò ở lô TN1 không những cao hơn ở lô ĐC (P=0,0000) mà cả ở lô TN2 (P=0,0434). Bò ở lô TN2 là bò nội nhưng cũng có tăng trọng cao hơn bò lai ở lô ĐC (P=0,0089). Trên nền khẩu phần cỏ thoả mãn, việc bổ sung thức ăn tinh với mức 1,5% khối lượng cơ thể đã tạo ra hiệu ứng tặng trọng cao hơn rõ rệt ở cả bò lai và bò nội trong giai đoạn vỗ béo. Phân tích hiệu quả kinh tế cho thấy, lợi nhuận cao nhất thuộc về TN1 (1,412 triệu đ/con/90 ngày), sau đó đến ĐC và thấp nhất là TN2. Từ kết quả này, có thể khuyến cáo: 1) nếu cung cấp đủ cỏ và bổ sung thêm thức ăn tinh (1,5% KL) bò lai có thể tăng trọng đến mức gần 1000g/ngày, 2) với bò nội nếu cung cấp đủ cỏ, lượng thức ăn tinh bổ sung cần được điều chỉnh để có lợi nhuận cao.Từ khoá: Cỏ trồng, thức ăn tinh, vỗ béo, tăng trọng, hiệu quả kinh t

    Ảnh hưởng của thức ăn tinh bổ sung cho mẹ và con đến tăng trọng của bê trong giai đoạn bú sữa

    No full text
    Một thí nghiệm theo mô hình CRD với tổng số 30 cặp mẹ con, chia đều làm 5 lô (ĐC1-bò nội thuần; ĐC 2 và các lô TN1, TN2 và TN3 đều là mẹ lai Sind và phối tinh Sind) đã được tiến hành từ tháng 12/2012 đến tháng 4/2014 tại xã Cam Tuyền, huyện Cam lộ, tỉnh Quảng Trị. Bò ở 2 lô đối chứng (ĐC 1 và ĐC 2) được chăn thả 8 giờ/ngày và có rơm khô ăn tự do tại chuồng vào ban đêm. Bò ở các lô thí nghiệm cũng được ăn khẩu phần cơ sở tương tự như bò đối chứng, ngoài ra bò ở lô TN1 được ăn 1 kg tinh/con/ngày trong thời gian 2 tháng trước khi đẻ; bò ở lô TN 2 và TN3 được bổ sung 1 kg tinh/con/ngày trong thời gian 2 tháng trước và 2 tháng sau khi đẻ. Bê ở lô TN1 và TN3 theo mẹ hoàn toàn, không được ăn thức ăn tinh, trong khi đó bê ở lô TN2 được cho ăn thức ăn tinh 5 bữa ngày với lượng không hạn chế và bắt đầu vào ngày thứ 7 sau khi đẻ. Khối lượng bê ở các lô đã được xác định tại lúc sơ sinh và tại các tuần tuổi thứ 4, 8, 12 và 16. Kết quả cho thấy, khối lượng sơ sinh của bê ĐC 1 nhỏ hơn nhiều so với bê ở các lô còn lại. Sự khác biệt này cũng duy trì ở tất cả các thời điểm sau đó. Tuy vậy, không có sự khác biệt về khối lượng sơ sinh giữa các lô thí nghiệm và giữa các lô thí nghiệm với ĐC 2. Sự chênh lệch về khối lượng bê giữa các lô chỉ thực sự rõ ràng kể từ tuần tuổi thứ 8. Đến 16 tuần tuổi, bê ở lô TN2 (cả mẹ và con đều được bổ sung tinh) là 86,4 kg cao hơn bê ở lô TN1 (74,1 kg), lô TN3 (75,7kg) và ĐC 2 (66,5kg), với mức tương ứng là 30, 14 và 16%. Kết quả nghiên cứu đã thể hiện rõ ảnh hưởng tích cực của các phương thức bổ sung thức ăn tinh cho mẹ và con đến phát triển khối lượng của bê trong giai đoạn bú sữa.-----------------Từ khoá: Bổ sung thức ăn tinh cho mẹ và con; khối lượng bê sơ sinh, 4, 8 và 16 tuần tuổ

    Ảnh hưởng của thức ăn tinh bổ sung cho mẹ và con đến tăng trọng của bê trong giai đoạn bú sữa

    No full text
    Một thí nghiệm theo mô hình CRD với tổng số 30 cặp mẹ con, chia đều làm 5 lô (ĐC1-bò nội thuần; ĐC 2 và các lô TN1, TN2 và TN3 đều là mẹ lai Sind và phối tinh Sind) đã được tiến hành từ tháng 12/2012 đến tháng 4/2014 tại xã Cam Tuyền, huyện Cam lộ, tỉnh Quảng Trị. Bò ở 2 lô đối chứng (ĐC 1 và ĐC 2) được chăn thả 8 giờ/ngày và có rơm khô ăn tự do tại chuồng vào ban đêm. Bò ở các lô thí nghiệm cũng được ăn khẩu phần cơ sở tương tự như bò đối chứng, ngoài ra bò ở lô TN1 được ăn 1 kg tinh/con/ngày trong thời gian 2 tháng trước khi đẻ; bò ở lô TN 2 và TN3 được bổ sung 1 kg tinh/con/ngày trong thời gian 2 tháng trước và 2 tháng sau khi đẻ. Bê ở lô TN1 và TN3 theo mẹ hoàn toàn, không được ăn thức ăn tinh, trong khi đó bê ở lô TN2 được cho ăn thức ăn tinh 5 bữa ngày với lượng không hạn chế và bắt đầu vào ngày thứ 7 sau khi đẻ. Khối lượng bê ở các lô đã được xác định tại lúc sơ sinh và tại các tuần tuổi thứ 4, 8, 12 và 16. Kết quả cho thấy, khối lượng sơ sinh của bê ĐC 1 nhỏ hơn nhiều so với bê ở các lô còn lại. Sự khác biệt này cũng duy trì ở tất cả các thời điểm sau đó. Tuy vậy, không có sự khác biệt về khối lượng sơ sinh giữa các lô thí nghiệm và giữa các lô thí nghiệm với ĐC 2. Sự chênh lệch về khối lượng bê giữa các lô chỉ thực sự rõ ràng kể từ tuần tuổi thứ 8. Đến 16 tuần tuổi, bê ở lô TN2 (cả mẹ và con đều được bổ sung tinh) là 86,4 kg cao hơn bê ở lô TN1 (74,1 kg), lô TN3 (75,7kg) và ĐC 2 (66,5kg), với mức tương ứng là 30, 14 và 16%. Kết quả nghiên cứu đã thể hiện rõ ảnh hưởng tích cực của các phương thức bổ sung thức ăn tinh cho mẹ và con đến phát triển khối lượng của bê trong giai đoạn bú sữa.-----------------Từ khoá: Bổ sung thức ăn tinh cho mẹ và con; khối lượng bê sơ sinh, 4, 8 và 16 tuần tuổ

    EFFECT OF REPLACING RICE BRAN OR FISH MEAL BY FRESH OR DRIED MULBERRY LEAVES ON DIGESTIBILITY AND NITROGEN RETENTION OF PIGS

    No full text
    Two experiments were conducted to study the effect of replacing rice bran or fishmeal by fresh or dried mulberry leaves on digestibility and nitrogen retention of pigs. Inexperiment 1, a double 4x4 Latin square design in a 2x4 factorial arrangement was used tostudy the effect of graded levels of mulberry leaf meal (0, 15, 30 and 50% on a dry basis,respectively) in diets based on rice brans and broken rice on the N balance of eight youngcastrate male Mong Cai pigs with a mean weight of 15 kg. Mulberry leaf meal (MLM)contained DM 30.4% and in the dry matter: ash 16.9, crude fibre 20.1 and crude protein(Nx6.25) 25.4%, respectively. Feed intake was calculated to be 50 g DM/kg body weight.Although not significant, DM and organic matter digestibility appeared to increase withincreasing levels of dietary MLM. Organic matter digestibility was significantly better(P<0.05); N balance indices improved with the inclusion of MLM in the diet, and this effectwas significant for N retention (P<0.05) when expressed as proportion of the digested N. Inexperiment 2, six Large White castrate male pigs, weighing on average 15 kg, wereallocated according to a balanced change-over design, to two diets where mulberry leaves,either in milled of sun-dried or chopped off fresh, contributed about 45% of the total dailyN intake in iso-nitrogenous diets (Nx6.25, 13.7% on a dry basis). There were no significanteffects of treatment on DM, organic matter and N digestibility but dry leaves wereassociated with slightly lower digestibility values. N balance tended to be better in pigs fedwith fresh mulberry leaves compared to mulberry leaf meal. It can be concluded that inrice-based diets, it is possible to use mulberry leaves as the main protein source.Keywords: Digestibility, leaves, mulberry, pigs, protein
    corecore