9 research outputs found
CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TRẦM TÍCH ĐẦM THỊ NẠI, TỈNH BÌNH ĐỊNH
Nội dung bài báo trình bày một số kết quả nghiên cứu chất lượng môi trường trầm tích đầm Thị Nại vào tháng 11/2008 (mùa mưa) và tháng 4/2009 (mùa khô). Từ kết quả phân tích cho thấy hàm lượng các chất hữu cơ và kim loại nặng trong trầm tích đầm Thị Nại biến đổi trong phạm vi rộng (C hữu cơ từ 0,09 - 1,16 %, N hữu cơ từ 88,7 - 1826,0 mg/g, P tổng số từ 44,2 - 938,2 mg/g, Zn từ 3,4 - 75,6 mg/g, hydrocarbon từ 108 - 423 mg/g, Cu từ 0,1 - 15,3 mg/g, Pb từ 2,3 - 35,2 mg/g, Fe từ 1379 - 14981 mg/g), có xu hướng tăng dần từ đỉnh đầm về phía cửa đầm và có mối quan hệ mật thiết với độ hạt của trầm tích. Hàm lượng của chúng cao trong trầm tích bùn sét và thấp hơn trong trầm tích hạt thô. Vật chất hữu cơ trong trầm tích chủ yếu có nguồn gốc lục nguyên (terrigeneous organic matter). Chất lượng môi trường trầm tích đầm Thị Nại còn khá tốt, hàm lượng các chất hữu cơ và kim loại nặng trong trầm tích đầm Thị Nại đều phù hợp cho đời sống thủy sinh. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng môi trường trầm tích gồm vật chất từ tự nhiên (chủ yếu là vật chất từ sông Côn và sông Hà Thanh) và từ các hoạt động kinh tế - xã hội trong khu vực liền kề.Vào thời kỳ mưa lũ, sự lắng đọng vật chất xảy ra trong toàn đầm, nhưng vào mùa khô hiện tượng này chủ yếu diễn ra trong khu vực đỉnh đầm. Tốc độ lắng đọng trầm tích (TĐLĐTT) vào mùa mưa cao hơn so với mùa khô nhưng hàm lượng các chất hữu cơ và kim loại nặng trong vật liệu trầm tích mới lắng đọng vào mùa mưa lại thấp hơn. Summary: The paper represents some aspects on the quality of the sediments in Thi Nai lagoon. Results of 2 surveys (performed in November 2008, rainy season, and April 2009, dry season) show that the contents of the organic materials and heavy metals in the sediment were considerably various (organic C: 0.09 -1.16%, organic N: 88.7 – 1826.0 mg/g, total P: 44.2 - 938.2 mg/g; Zn: 3.4 - 75.6 mg/g; Cu: 0.1 - 15.3 mg/g, Pb: 2.3 – 35.2 mg/g, Fe: 1379 - 14981 mg/g; HC: 108 - 423 mg/g). Content of organic matters, heavy metals and hydrocarbon increases from the top toward the mouth of the lagoon because of the increase of pelite fraction in the sediments. The most part of the organic matters are terrigeneous in origin particularly in rainy season. Generally, the sediment in Thi Nai lagoon, in term of organic materials and heavy metals, was suitable for the aquatic life. The factors affecting to the sediment quality included the materials from natural sources (mainly from Con and Ha Thanh rivers) and human activities. In the rainy season, the deposition on the sediment took place in the whole of the lagoon, whereas during the dry season, it prevailed mainly in the top of the lagoon. Sedimentation rate was higher in rainy season compared to dry season but the contents of the organic matters and heavy metals of materials in sediment traps were higher in dry season
Lịch sử Việt Nam. t.V, Từ năm 1802 đến năm 1858
719 tr. : minh họa; 24 cm
Thành phần hóa học và hoạt tính kháng nấm hại cây trồng của phần rễ cây xuyên khung (Ligusticum wallichii, Apiaceae)
Ligusticum wallichii thuộc họ Apiaceae, được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc để ngăn ngừa thiếu máu, điều trị chứng đau nửa đầu và các bệnh về tim mạch. Ngoài ra, nó còn ức chế các vi khuẩn gây bệnh ở người như Pseudomonas aeruginosa, Salmonella typhoid và Cholera sp.. Qua nghiên cứu này, hàm lượng tinh dầu, các chất chiết xuất, Z-lingustilide và ferulic acid trong 15 mẫu Ligusticum được trồng và xác định hoạt tính kháng nấm của loài Ligusticum. Hàm lượng tinh dầu thay đổi từ 0,20 đến 0,32%. Hàm lượng cao chiết bằng dung môi hữu cơ từ 7,52 đến 18,45%. Thông qua phân tích định lượng HPLC, hàm lượng Z-lingustilide được xác định khoảng 216,18–527,41 µg/g (w/dw) và hàm lượng ferulic acid từ 119,45 đến 501,57 µg/g (w/dw). Các cao chiết và tinh dầu thể hiện hoạt tính in vitro tương đối mạnh đối với nấm Fusarium oxysporum, Sclerotium rolfsii và Colletotrichum gloeosporioides. Kết quả in vitro cũng cho thấy cao chiết ethyl acetate có hoạt tính mạnh nhất trên tất cả các loại nấm thử nghiệm