613 research outputs found

    Has Merger and Acquisition been considered as a method of dealing with weak banks? Evidence from the third bank restructuring process in Vietnam

    Get PDF
    In the third bank restructuring process in Vietnam during the 2011–2016 period, banking system experienced the participation of 14 commercial banks with 7 successful, both mandatory and voluntary, M&A deals. This research tries to answer if M&A was a good method of dealing with weak banks as Vietnam expected. Firstly, the article evaluates M&A activities’ effects on business results of acquiring banks through three financial ratios (including return on asset (ROA), return on equity (ROE) and net interest margin (NIM) by using paired sample T-Test. The results show that M&A activities only have positive effects on ROA of acquiring banks in Vietnam, while impacts of M&A activities on ROE and NIM are not clear. Secondly, by using a fuzzy TOPSIS approach based on Balanced Scorecard, the research shows that the performance of acquiring banks in mandatory M&A deals are not good as compared to the other acquiring banks. In fact, M&A deal only has strongly positive effects on acquiring bank performance, when it is totally based on real demands of both target and acquiring banks as well as created synergy. Therefore, to deal with weak banks in the next time period, Vietnamese banking system should focus on other market solutions in addition to keeping the nature of M&A activities and improving its efficiency

    TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG FACEBOOK VÀO MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA CÁC KHÁCH SẠN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ – TỪ QUAN ĐIỂM DOANH NGHIỆP

    Get PDF
    Tóm tắt: Trên cơ sở nghiên cứu tình hình ứng dụng trang Facebook vào hoạt động marketing tại 65 khách sạn (1–5 sao) trên địa bàn thành phố Huế, kết quả chỉ ra rằng việc ứng dụng Facebook vào một số hoạt động marketing của các khách sạn này vẫn chỉ dừng lại ở mức độ ứng dụng cơ bản và chưa tận dụng các tính năng nổi bật của nó trong việc tăng lượng đặt phòng trực tuyến và nâng cao sự phản hồi của khách hàng. Điều này xuất phát từ các yếu tố tác động bên trong khách sạn là trình độ nhân viên, ngân sách và cơ sở hạ tầng; và bên ngoài là các yếu tố tâm lý của khách hàng. Từ đó hàm ý quản lý và phát triển việc ứng dụng Facebook vào hoạt động marketing của các khách sạn phải nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hình thức này; nâng cấp cơ sở hạ tầng và cải thiện trình độ nhân lực.Từ khóa: Facebook, marketing, khách sạn, trình độ nhân viên, đặt phòng trực tuyế

    ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH THÔNG MINH: KHÁI NIỆM VÀ CÁC XU HƯỚNG NGHIÊN CỨU HIỆN NAY

    Get PDF
    Tóm tắt: Điểm đến du lịch thông minh là một khái niệm mới nổi trong bối cảnh phát triển và ứng dụng của công nghệ thông tin và truyền thông ngày càng gia tăng ở các điểm đến du lịch, khái niệm này đang dần tạo ra một cách tiếp cận mới về quản lý điểm đến. Bài viết này sử dụng phương pháp phân tích nội dung nhằm mục đích hệ thống hóa các công bố bằng tiếng Anh về điểm đến thông minh đã được đăng trên các tạp chí uy tín. Kết quả phân tích cho thấy cho thấy đa số các nghiên cứu tập trung vào thực nghiệm, quan sát các điểm đến du lịch thông minh mới nổi ở Châu Âu. Cả phương pháp định tính và định lượng đều được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu, một số nghiên cứu sử dụng kết hợp cả định tính và định lượng. Các nội dung nghiên cứu có liên quan bao gồm: (1) Khái niệm nền tảng liên quan đến điểm đến du lịch thông minh; (2) Công nghệ thông tin và truyền thông; (3) Du khách thông minh; và (4) Quản lý điểm đến thông minh.Từ khóa: điểm đến du lịch thông minh; du lịch thông minh; phân tích nội dung; thông minh; công ngh

    NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SỬ DỤNG XYLOOLIGOSACCHARIDES (XOS) CỦA BACILLUS

    Get PDF
    Hiện nay vi khuẩn Bacillus đang được sử dụng phổ biến trong các sản phẩm probiotic dùng cho người, ví dụ như Bacillus subtilis, B.licheniformis, B. coagulans. Một dặc điểm ưu việt của Bacillus là khả năng tạo spore của chúng. Các bào tử sẽ nảy mầm thành vi khuẩn và phát triển trong ruột, nhờ đó duy trì được hệ vi khuẩn đường ruột có ích. Probiotic dạng bào tử  bền ở dải pH rộng, từ aicd của dạ dày đến kiềm nhẹ ở đại trực tràng và đang được sử dụng với số lượng lớn trong các chế phẩm probiotic. Xylooligosaccharide (XOS) là một olygomer của xylose. Thị trường cho XOS đang ngày một hấp dẫn do những ưu thế về công nghệ của nó so với các oligosaccharide khác. XOS cũng là cơ chất lên men của Bifidobacteria và Lactobacillus, những vi khuẩn phổ biến trong đại trực tràng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có bằng chứng về việc Bacillus có khả năng đồng hóa XOS. Số liệu thu được cho thấy trong số 5 chủng vi khuẩn Bacillus đã được nghiên cứu, chủng vi khuẩn B. subtilis HU58 có khả năng đồng hóa XOS tốt nhất với 70 % hàm lượng XOS tông số đã được sử dụng. Hàm lượng XOS còn lại trong canh trường nuôi cấy sau 24 giờ  và hình ảnh định tính XOS bằng sắc ký lớp mỏng (TLC) đã chứng tỏ điều này. Sự lên men XOS của B. subtilis HU58 cũng sinh ra axit butyric. Hàm lượng axit này đã tăng từ 0,54 % lên 8,68 % sau 24 giờ nuôi cấy trên môi trường LB chứa XOS 0,25 %. Như vậy, đây là phát hiện đầu tiên về B. subtilis HU58 có khả năng đồng hóa XOS, gợi ý rằng XOS và B. subtilis HU58 có thể sử dụng để tạo sản phẩm synbiotic mới

    THÀNH PHẦN, MẬT ĐỘ VÀ SỰ PHÂN BỐ TRỨNG CÁ VÀ CÁ BỘT VÙNG ĐẦM THỊ NẠI, TỈNH BÌNH ĐỊNH

    Get PDF
    Kết quả của bài báo là một phần nội dung của nhiệm vụ độc lập cấp nhà nước “Nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm xây dựng các giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững tại đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định” do Viện Hải dương học chủ trì giai đoạn 2008-2010. Kết quả hai chuyến khảo sát vào mùa mưa (11/2008) và mùa khô (4/2009) với 18 trạm thu mẫu ở đầm Thị Nại đã thu được 20.588 trứng và 4.458 cá bột. Mật độ trung bình vào mùa mưa (11/2008) là 3,58 trứng và 49,34 cá bột/100m3; vào mùa khô (4/2009) là 951,38 trứng và 75,54 cá bột/100m3, cao hơn nhiều so với mùa mưa. Có sự khác biệt rõ nét về mật độ trứng cá và cá bột giữa các khu vực nghiên cứu và thời gian khảo sát. Vùng tập trung của trứng cá và cá bột là xung quanh cồn Chim ở giữa đầm và khu vực gần cửa đầm; mùa khô (4/2009) có nhiều loài cá đẻ hơn so với mùa mưa (11/2008). Thành phần trứng cá và cá bột gồm 30 họ thuộc 10 bộ, trong đó trứng cá thuộc họ cá mối (Synodontidae), giống cá cơm trổng (Stolephorus), cá cơm (Encrasicholina) và họ cá trích (Clupeidae) là xác định được, chiếm 13%, riêng họ cá mối chiếm 12,5%. Cá bột có 29 họ, họ cá bống (Gobiidae) chiếm ưu thế 81,58%, tiếp theo là họ cá trích (Clupeidae) chiếm 4,08%, họ cá lon (Blennidae) chiếm 3,68%, giống cá sơn biển (Ambasis sp) chiếm 1,35%. Các họ cá khác mỗi loại chiếm tỉ lệ dưới 1%.  Summary: The paper presented as a part of the results belonging to the national independent project “Studying on scientific fundamentals for formulating solutions on sustainable aquaculture development at Thi Nai lagoon, Binh Dinh province” carried out by Institute of Oceanography during 2008-2010. The results of two surveys during the rainy season (11/2008) and dry season (4/2009) with 18 stations within Thi Nai lagoon collected 20588 fish eggs and 4458 fish larvae. The average densities on the rainy season (11/2008) were 3.58 fish eggs and 49.34 fish larvae/100m3; the average densities on the dry season (4/2009) were 951.38 fish eggs and 75.54 fish larvae/100m3, which were much higher than those on the rainy season. There was distinct difference in densities of the fish eggs and larvae according to the surveyed areas and seasons. The high densities of fish eggs and fish larvae were observed at Chim hillock surrounding the center and nearby the mouth of the lagoon; more fish species bred during dry season (4/2009) compared to that during rainy season (11/2008). The composition of fish eggs and larvae included 30 families belonging to 10 orders, in which the fish eggs belonging to Synodontidae, Stolephorus, Encrasicholina and Clupeidae were identified, corresponding to 13%, in which Synodontidae 12.5%. Fish larvae included 29 families, in which Gobiidae 81.58%, followed by Clupeidae 4.08%, Blennidae 3.68%, Ambasis sp 1.35%. Other families, each of them below 1%

    NGHIÊN CỨU VI KHUẨN ACETOBACTER XYLINUM TẠO MÀNG BACTERIAL CELLULOSE ỨNG DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ BỎNG

    Get PDF
    Từ 14 mẫu nguyên liệu phân lập được 65 chủng vi khuẩn, trong đó chủng A.xylinum BHN2 có khả năng tạo màng BC tốt nhất. Chủng A. xylinum BHN2 có khả năng tạo màng BC tốt nhất trong môi trường có các thành phần (g/l): glucose: 20 g, (NH4)2SO4: 2 g, KH2PO4: 2 g, Mg(SO)4: 2 g, nước dừa già: 1 lit với pH = 5,0; S/V = 0,8. Lượng giống ban đầu tốt nhất là 10 % và thời gian  thu màng  là  sau 6 ngày. Màng BC do chủng A. xylinum BHN2  tổng hợp có  sợi cellulose nhỏ, dai, độ bền kéo, độ thấu khí cao; độ thấm hút nước tốt có triển vọng ứng dụng làm màng trị bỏng

    Ảnh hưởng của giá thể đến sự sinh trưởng và ra hoa của cây hoa thược dược (Dahlia variablis Desf.)

    Get PDF
    Nghiên cứu nhằm tìm ra loại giá thể thích hợp cho cây hoa Thược dược sinh trưởng và ra hoa. Thí nghiệm được thực hiện tại nhà lưới Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Cần Thơ và được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, 6 lần lặp lại, gồm có 5 nghiệm thức là 5 công thức giá thể khác nhau. Nghiệm thức 1 giá thể phân rơm, các nghiệm thức khác là giá thể phối trộn trấu tươi: mụn xơ dừa theo thể tích với tỷ lệ 4:1, 3:2, 2:3 và 1:4. Kết quả thí nghiệm cho thấy cây hoa Thược dược sinh trưởng và ra hoa ở giá thể trấu tươi: xơ dừa (2:3) và giá thể phân rơm tốt hơn so với các nghiệm thức còn lại. Sinh trưởng của cây hoa Thược dược ở giá thể trấu tươi: xơ dừa (2:3) và giá thể phân rơm tương đương nhau; tuy nhiên, đường kính hoa khi trồng ở giá thể trấu tươi: xơ dừa (2:3) lớn hơn khi trồng với giá thể phân rơm (8,82 so với 8,03 cm)

    Đánh giá khả năng tăng cường tích lũy tinh bột ở cây thuốc lá chuyển gen AGPS và AGPL mã hóa Enzyme AGPase ở cây sắn

    Get PDF
    The AGPase (ADP-Glucose pyrophosphorylase) is one of the ubiquitous enzymes catalyzing the first step in starch biosynthesis. It plays an important role in regulation and adjusts the speed of the entire cycle of glycogen biosynthesis in bacteria and starch in plants. In higher plants, it is a heterotetramer and tetrameric enzyme consisting two large subunits (AGPL) and two small subunits (AGPS) and encoded by two genes. In this paper, both AGPS and AGPL genes were sucessfully isolated from cassava varieties KM140 and deposited in Genbank with accession numbers KU243124 (AGPS) and KU243122 (AGPL), these two genes were fused with P2a and inserted into plant expression vector pBI121 under the control of 35S promoter. The efficient of this construct was tested in transgenic N. tabacum. The presence and expression of AGPS and AGPL in transgenic plants were confirmed by PCR and Western hybridization. The starch content was quantified by the Anthrone method. Transgenic plant analysis indicated that that two targeted genes were expressed simultaneously in several transgenic tobacco lines under the control of CaMV 35S promoter.  The starch contents in 4 analyzed tobacco transgenic lines displays the increase 13-116%  compared to WT plants. These results indicated that the co-expression of AGPS and AGPL is one of effective strategies for enhanced starch production in plant. These results can provide a foundation for developing other genetically modified crops to increase starch accumulation capacity.Enzyme AGPase là một trong những enzyme quan trọng, xúc tác cho bước đầu tiên trong quá trình tổng hợp tinh bột và đã được chứng minh là enzyme điều hòa, điều chỉnh tốc độ phản ứng của toàn bộ chu trình sinh tổng hợp glycogen ở vi khuẩn và tinh bột ở thực vật. Ở thực vật bậc cao, AGPase được xác định là enzyme dị lập thể, được cấu tạo bởi hai tiểu phần lớn (AGPL) và hai tiểu phần nhỏ (AGPS) do hai gen tương tứng mã hóa. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân lập hai gen mã hóa cho tiểu phần lớn và tiểu phần nhỏ của AGPase từ giống sắn KM140. Hai gen được nối với nhau bằng trình tự P2a và được biểu hiện đồng thời trên một khung đọc mở dưới sự điều khiển của promoter CaMV 35S. Cấu trúc này được chèn vào vector pBI121 và được biến nạp vào cây thuốc lá bằng phương pháp chuyển gen thông qua A. tumefaciens. Cây chuyển gen được kiểm tra bằng phương pháp PCR, Western blot và định lượng hàm lượng tinh bột bằng phương pháp Anthrone. Kết quả đã cho thấy hàm lượng tinh bột tích lũy trong lá cây chuyển gen cao hơn các cây đối chứng từ 13-116% trong cùng điều kiện nuôi dưỡng. Nghiên cứu của chúng tôi tạo ra thêm một hướng tiếp cận trong việc tạo cây trồng biến đổi gen tăng cường khả năng tích lũy tinh bột

    Khả năng hấp phụ crom(III) bằng vật liệu compozit polyanilin-lignin

    Get PDF
    Polyaniline-lignin composite were prepared by polymerization of aniline in the presence of lignin using (NH4)2S2O8 as oxidant. Properties of the obtained polyaniline-lignin composite were studied by FT-IR spectra, thermal gravimetric analysis (TGA) and scanning electron microscopy (SEM). Results on absorption of Cr(III) by polyaniline-lignin composite showed the optimal absorption conditions of Cr(III) were pH of solution 5,0 and contact time of one hour. Absorption of Cr(III) followed the Langmuir model as evidenced by a good coefficient of correlation value (R2 = 0.9986). The maximum adsorption capacity, qmax from the Langmuir model was found to be 71.43 mg/g for Cr(III) and are higher than the separate polyaniline or lignin

    KHẢO SÁT KHÁNG THỂ THỤ ĐỘNG VÀ KHÁNG THỂ CHỦ ĐỘNG TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI VIRUS CÚM H5N1 Ở CÁC LOÀI GIA CẦM KHÁC NHAU

    Get PDF
    Nghiên cứu kháng thể thụ động ở vịt con 1 ngày tuổi, các đối tượng không tiêm phòng gồm ngỗng, ngan, vịt và gà thả vườn cũng như sự lưu hành của virus H5N1 được khảo sát ở Đồng Tháp và Hậu Giang. Hiệu giá kháng thể HI được xác định bằng phương pháp ức chế ngưng kết hồng cầu HI. Sự hiện diện của virus H5N1 xác định bằng kỹ thuật RT-PCR với bộ kit Mag MAXTM -96AI/ND viral RNA isolate kit (USA). Kết quả cho thấy: Vịt con giống Super M 1 ngày tuổi nhận được kháng thể thụ động kháng lại virus cúm gia cầm từ mẹ truyền sang, tỉ lệ bảo hộ 23,33% và giảm xuống còn 5% ở ngày tuổi thứ 13. Các đối tượng gia cầm thủy cầm không tiêm phòng như ngỗng, ngan, vịt thịt, gà chăn thả đều có huyết thanh dương tính với virus cúm A, sub type H5 với tỉ lệ từ 4% đến 20% trong số mẫu xét nghiệm. Các nhóm gia cầm này cũng có mang virus từ các mẫu huyết thanh và mẫu swab với tỉ lệ từ 3,84% đến 16,67%. ở khu vực chợ bán gia cầm sống, vịt và ngan ở đây có sự hiện diện của virus trong mẫu swab với tỉ lệ là 16,67%
    corecore