289 research outputs found

    Động vật hoang dã sử dụng cây thuốc để chữa lành vết thương: Đó có thể là do serendipity không?

    Get PDF
    Trong một nghiên cứu gần đây được công bố trên Tạp chí Scientific Reports, các nhà nghiên cứu đã lần đầu tiên ghi lại việc động vật hoang dã sử dụng một loại cây có dược tính để chữa lành vết thương

    TẠI SAO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮ TIỀN MẶT?

    Get PDF
    This research aims at exploring the current state and the reasons for holding cash of Vietnamese firms. Using a dataset of 199 companies listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange in the period from 2011 to 2018, statistical analyses indicate that the median level of cash holding by net assets of Vietnamese firms is about 5.9%, which is lower than firms in many countries in the region. High levels of cash holding only appear among small firms. In addition, the cash holding ratios of firms in all four size quantiles have shrunk since 2016, especially for firms in the smallest size quantile. Regression results show that Vietnamese firms tend to hoard cash when business conditions improve, when they have low growth opportunities, or when business risks increase. On the other hand, Vietnamese firms tend to reduce holding cash when other internal sources of cash substitutes are in abundance or when external fund accessibility improves. These characteristics support the trade-off theory of cash holding, meaning that Vietnamese firms hold cash mainly for transactional and precautionary purposes. Additional analyses show that the rate of adjustment of cash holding toward the target level is about 30% a year. Taken together, the results confirm the hypothesis that Vietnamese firms hold cash for transactional and precautionary purposes, and they constantly reconsider the benefits and costs of adjusting cash holding ratios to the target levels. The research results have two main implications. Firstly, the fact that firms with low growth opportunities have higher cash holding ratios indicates that these firms’ board of directors may have been inefficient in monitoring and disciplining the behavior of firms’ executives toward shareholder interests. Secondly, the fact that Vietnamese firms have low and dwindling cash holdings in recent years and use their cash stock mainly for transactional and precautionary purposes may be a sign of internal resource deficiency. Given that internal resources are vital to investments in research and development, which in turn contribute to firms’ future growth and competitiveness, the current low level cash holding is a bad sign for the future growth as well as the long-term competitiveness of Vietnamese firms.Nghiên cứu này hướng đến khám phá thực trạng và lý do nắm giữ tiền mặt của doanh nghiệp Việt Nam. Dựa trên tập dữ liệu gồm 199 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011 đến 2018, kết quả phân tích thống kê cho thấy mức nắm giữ tiền mặt phổ biến của doanh nghiệp Việt Nam là khoảng 5.9%. Tỉ lệ nắm giữ tiền mặt cao chỉ xuất hiện ở các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Ngoài ra, tỉ lệ nắm giữ tiền mặt của các doanh nghiệp ở tất cả bốn nhóm phân vị theo quy mô đều có xu hướng giảm kể từ năm 2016, mà mạnh nhất là ở nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ. Phân tích hồi quy cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam thường tăng tích trữ tiền mặt khi điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp thuận lợi hay rủi ro kinh doanh gia tăng và giảm tích trữ tiền mặt khi có các nguồn vốn nội bộ khác hay khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng trở nên dễ dàng hơn. Các đặc trưng này ủng hộ lý thuyết cân bằng lợi ích và chi phí (Trade-off theory) trong nắm giữ tiền mặt. Các kiểm định tăng cho thấy tốc độ điều chỉnh tỉ lệ tiền mặt nắm giữ là khoảng 30% mỗi năm; Qua đó, cũng ủng hộ kết luận các doanh nghiệp Việt Nam nắm giữ tiền mặt nhằm mục đích thanh toán và dự phòng rủi ro và có tính toán cân bằng giữa lợi ích và chi phí khi quyết định lượng tiền mặt nắm giữ tối ưu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra hai hàm ý chính sách đối với nhà nghiên cứu và nhà đầu tư. Thứ nhất, kết quả phân tích cho thấy ban điều hành của nhóm doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng thấp và ít cơ hội đầu tư trong tương lai đã có những quyết định giữ tiền mặt phi kinh tế và có thể ban quản trị doanh nghiệp đã không làm tròn chức năng giám sát và điều chỉnh hành vi của ban điều hành theo lợi ích của cổ đông. Thứ hai, việc các doanh nghiệp Việt Nam có tỉ lệ nắm giữ tiền mặt khá thấp và chủ yếu phục vụ mục đính giao dịch cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy năng lực đầu tư nội bộ là thấp. Điều này sẽ hạn chế khả năng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng và cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp

    TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ LÊN ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM

    Get PDF
    This study examines the impact of board structure on financial leverage decisions, as measured by the ratio of total debt to total assets, of nonfinancial firms listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange. Based on a dataset of 1,592 observations collected from 199 firms for the period from 2012 to 2019, the analysis shows a correlation between board characteristics and a firm’s financial leverage. Specifically, the higher the number of annual board meetings or the larger the number of female members on the board of directors, the lower the rate of financial leverage. On the other hand, the size of the board and the presence of CEOs on the board do not have a significant influence on financial leverage decisions. A robust test using the system of generalized method of moments (GMM) to control for endogeneity generally confirms the results.Nghiên cứu này kiểm chứng sự tác động của cấu trúc hội đồng quản trị tới quyết định đòn bẩy tài chính, cụ thể là tỷ lệ tổng nợ trên tổng tài sản, của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong vòng tám năm từ năm 2012 đến 2019. Dựa trên bộ dữ liệu gồm 1,592 quan sát thu thập từ 199 doanh nghiệp, kết quả phân tích cho thấy có mối tương quan giữa đặc điểm hội đồng quản trị và đòn bẩy tài chính. Cụ thể, số lượng cuộc họp hội đồng quản trị hàng năm càng nhiều hay số lượng thành viên nữ trong hội đồng quản trị càng lớn thì tỷ lệ đòn bẩy tài chính càng thấp. Trong khi đó, quy mô hội đồng quản trị và vai trò kiêm nhiệm của giám đốc điều hành không có ảnh hưởng đáng kể tới các quyết định tài chính. Các phương pháp kiểm định tăng cường, mô hình động và phương pháp ước lượng system-GMM được sử dụng để ước lượng hệ số hồi quy, tăng tính chính xác và khẳng định kết quả thu được từ mô hình nghiên cứu

    Không hy sinh rừng để phát triển kinh tế – xã hội: Việt Nam lựa chọn lối hài hòa, cân bằng sinh thái

    Get PDF
    Rừng là một phần cực kỳ quan trọng của hệ sinh thái Trái đất và con người. Rừng chiếm 75% tổng sản lượng sơ cấp của sinh quyển Trái đất và chứa 80% sinh khối thực vật của Trái đất. Sản lượng sơ cấp ròng rừng cung cấp ước tính là 21,9 gigaton (GT) sinh khối mỗi năm đối với rừng nhiệt đới..

    Từ luận đề văn hóa của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến xây dựng văn hóa thặng dư sinh thái trong thời đại mới

    Get PDF
    Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: “Phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra”. Xây dựng một hệ thống các giá trị văn hóa có tính toàn cầu đối với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, làm cho mọi quốc gia, mọi người hiểu và đánh giá đúng về vai trò của các giá trị văn hóa, đó là yếu tố quyết định thái độ và hành vi ứng xử của con người với môi trường và xã hội nhằm giữ vững một hệ sinh thái cân bằng và bền vững cho tương lai. Đó cũng là mục tiêu phát triển bền vững đất nước mà Đảng và Nhà nước ta hướng đến

    Không hy sinh rừng để phát triển kinh tế - xã hội: Việt Nam lựa chọn lối hài hòa, cân bằng sinh thái

    Get PDF
    Rừng là một phần cực kỳ quan trọng của hệ sinh thái Trái đất và con người. Rừng chiếm 75% tổng sản lượng sơ cấp của sinh quyển Trái đất và chứa 80% sinh khối thực vật của Trái đất. Sản lượng sơ cấp ròng rừng cung cấp ước tính là 21,9 gigaton (GT) sinh khối mỗi năm đối với rừng nhiệt đới, 8,1 GT đối với rừng ôn đới và 2,6 GT đối với rừng phương Bắc (1). Đất và rừng luôn có mối liên hệ nội tại. Trong hàng triệu năm, đất đã cung cấp nền tảng cần thiết cho toàn bộ hệ sinh thái rừng phát triển. Ở chiều ngược lại, rừng giúp đảm bảo sự màu mỡ của đất cho thực vật tiếp tục sinh trưởng và phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp

    Không hy sinh rừng để phát triển kinh tế - xã hội: Việt Nam lựa chọn lối hài hòa, cân bằng sinh thái

    Get PDF
    Đất và rừng luôn có mối liên hệ nội tại. Trong hàng triệu năm, đất đã cung cấp nền tảng cần thiết cho toàn bộ hệ sinh thái rừng phát triển. Ở chiều ngược lại, rừng giúp đảm bảo sự màu mỡ của đất cho thực vật tiếp tục sinh trưởng và phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp

    Nan đề đạo đức giữa ý thức của động vật và sự sinh tồn của con người: Liệu có lời giải nào không?

    Get PDF
    Vào ngày 19/4/2024, Tuyên bố New York về Ý thức của động vật đã được công bố tại hội nghị "Khoa học mới nổi về ý thức của động vật" tổ chức tại Đại học New York, Hoa Kỳ. Tuyên bố New York là một nỗ lực để thể hiện sự đồng thuận của giới khoa học về sự tồn tại trải nghiệm ý thức ở tất cả các loài có xương sống và nhiều loài không xương sống. Về mặt khoa học, Tuyên bố New York là một bước tiến bộ lớn cho nhân loại, nhưng nó cũng sẽ khiến cho nhiều người có ý thức hơn về các thách thức đạo đức liên quan đến động vật có trải nghiệm ý thức. Bài viết bàn về các cách tiếp cận triết học đối với vấn đề đạo đức của việc giết các sinh vật có tri giác để từ đó chỉ ra nan đề đạo đức đang hiện hữu trong xã hội loài người: Để duy trì sự tồn tại của con người, loài được xem là có đạo đức, thì chúng ta lại vi phạm đạo đức của chính chúng ta, là sát sinh các loài có giá trị nội tại, ý thức, hay tri giác khác. Nan đề đạo đức này đã tồn tại trong xã hội loài người từ rất lâu trước đây. Nhiều giải pháp đã được đề xuất và ứng dụng vào thực tế nhằm giải quyết nan đề này, tuy nhiên chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn giải quyết được nan đề đạo đức, đó là các sinh vật có tri giác vẫn tiếp tục bị giết vì sự sinh tồn của con người

    Nan đề đạo đức: ý thức của động vật và sự sinh tồn của con người

    Get PDF
    Vào ngày 19/4/2024 vừa qua, Tuyên bố New York về Ý thức của Động vật đã được công bố tại một hội nghị "Khoa học Mới nổi về Ý thức của Động vật" được tổ chức tại Đại học New York. Tuyên bố New York là một nỗ lực để thể hiện sự đồng thuận của giới khoa học về sự tồn tại trải nghiệm ý thức ở tất cả các loài có xương sống (bao gồm tất cả các loài bò sát, lưỡng cư và cá) và nhiều loài không xương sống (bao gồm, ít nhất là, các loài mực ống, giáp xác mười chân và côn trùng). Về mặt khoa học, Tuyên bố New York là một bước tiến bộ lớn cho nhân loại, nhưng nó cũng sẽ khiến cho nhiều người có ý thức hơn về các thách thức đạo đức liên quan đến động vật có trải nghiệm ý thức. Bài viết này sẽ bàn về các cách tiếp cận triết học đối với vấn đề đạo đức của việc giết các sinh vật có tri giác để từ đó chỉ ra nan đề đạo đức đang hiện hữu trong xã hội loài người: Để duy trì sự tồn tại của con người, loài được xem là có đạo đức, thì chúng ta lại vi phạm đạo đức của chính chúng ta, là sát sinh các loài có giá trị nội tại, ý thức, hay tri giác khác. Nan đề đạo đức này đã tồn tại trong xã hội loài người từ rất lâu trước đây. Nhiều giải pháp đã được đề xuất và ứng dụng vào thực tế nhầm giải quyết nan đề này, như cách tiếp cận bất bạo lực và ăn chay của Phật giáo, việc áp dụng luật Hồi giáo và các nghi lễ thiêng liêng đối với động vật trong Hồi giáo, các phòng trào đòi quyền cho động vật và thực hiện tuyệt chủng tự nguyện ở các nước phương Tây, hay chế biến thịt sử dụng tế bào động vật. Tuy nhiên, dù cách nào đi nữa thì hiện nay chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn giải quyết được nan đề đạo đức, đó là các sinh vật có tri giác vẫn tiếp tục bị giết vì sự sinh tồn của con người. Chúng tôi cho rằng giải pháp khả thi nhất hiện nay đó là thay đổi văn hóa tiêu dùng thực phẩm ở hiện tại, xây dựng các giá trị văn hóa thặng dư sinh thái, và thúc đẩy các giải pháp hòa bình

    Tìm hiểu sự tương tác giữa bất động sản, vốn và tiền tệ

    Get PDF
    Sự liên thông giữa các bất động sản, vốn và tiền tệ đang được nhắc tới nhiều, nhưng đó mới chỉ là sự hiểu biết trực giác
    corecore